Login to your account

Username *
Password *
Remember Me

Bên dưới những đôi cánh sắt - Ngọc Tự (tt)

Ngọc Tự: Bên dưới những đôi cánh sắt (tt)




Những cộng tác viên viết bài cho Lý Tưởng là một thành phần đông đảo, đa dạng, rất phong phú, đã góp phần hình thành một dòng văn chương Không Quân rất riêng biệt trong sinh hoạt chữ nghĩa quân đội.


Giai đoạn đầu tiên trong khoảng gần một năm, Lý Tưởng là Giai phẩm văn nghệ, nên thành phần cộng tác viên gồm có các văn nghệ sĩ Quân Binh chủng bạn và bên ngoài dân sự chiếm số đông, bên cạnh Ban biên tập cơ hữu ít ỏi người. Thế rồi, số này giảm dần, chỉ còn rất ít, cho đến giai đoạn 1970-1973 mới tăng thêm trở lại.

Về sau, bài vở thường xuyên xuất hiện, chiếm hầu hết số trang trên Lý Tưởng, đều là sáng tác của các cây bút KQ, phần lớn lại là những phi công đã từng trải qua trận mạc ở nhiều thời điểm, hay vẫn còn đang trực tiếp bay các loại phi cơ với đủ thứ phi vụ, phi xuất, phi tuần hàng ngày, trên khắp vùng trời quê hương, bên cạnh quân bạn tại các chiến trường.

Đấy có thể là những vị chỉ huy cao cấp đơn vị, những phi công nhiều thế hệ tiếp nối của các Phi đoàn khu trục, trực thăng, quan sát hay vận tải, hoặc thuộc các ngành kỹ thuật, không phi hành... bên cạnh một số ít, ở ngay tại P.TLC và các Phòng, Ban thuộc VP.TMP.CTCT, như là thành phần biên tập. Trong số họ có những người từng là các nhà văn tiếng tăm, từng sinh hoạt văn chương, báo chí, trước khi ngập ngũ vào KQ.

Chính vì thế mà trải dài trên các số báo của Lý Tưởng, đã xuất hiện những câu chuyện văn chương mang tính hiện thực đời lính, đúng hơn là những câu chuyện thật của những con người KQ tham dự cuộc chiến, được diễn tả tùy theo bối cảnh nơi chỗ mà họ có mặt. Những trang bút ký, phóng sự, những truyện ngắn, những bài thơ, hay những đoạn hồi ức, chuyên chở từng câu chuyện vô cùng đa dạng trong các tình tiết sự việc; và hiện diện đủ các loại phi cơ, từ khu trục, trực thăng, vận tải, vận tải võ trang, quan sát... qua những phi xuất, phi tuần với những nhiệm vụ quen thuộc: ném bom, oanh kích, trên đầu địch quân để yểm trợ quân bạn, tiếp tế, tải thương, tìm cứu, đổ quân, tuần thám không phận... Và trải dài qua bao mùa chiến dịch, với thật nhiều những địa danh chiến trường, từ vùng hỏa tuyến Trị Thiên, Dakto, Dakseang Tây nguyên núi rừng trùng điệp, cho đến An Lộc vang danh miền đông Nam bộ, đồng bằng sông nước Cửu Long..., kể cả chiến trường ngoại biên,và các phi vụ Bắc phạt một thời.

Nơi đâu quân bạn chạm địch là KQ có mặt, nơi đâu chiến trường khốc liệt là có chiến tích của KQ. Và những chuyện đó được kể lại qua những trang chữ trên Lý Tưởng.

Chỉ với hai tuyển tập Những Mảnh Trời Khác Biệt và Thơ Văn Không Quân Thời Chiến, có thể cũng đã tạm đủ để giới thiệu những nét riêng biệt của văn chương Không Quân.

Những Mảnh Trời Khác Biệt (tái bản ở hải ngoại)


Không thiếu những đau thương mất mát vì từng cánh chim đồng đội lần lượt vĩnh viễn lìa đàn. Cũng không thiếu những cay đắng buồn phiền loanh quanh chuyện thế nhân. Và cũng không thiếu những mẩu chuyện vui từ ngày tháng quân trường hay trong sinh hoạt thường ngày tại đơn vị, nơi đời sống xã hội.

Những con người tưởng như đã chai đá ấy vì thường ngày vây quanh toàn bom đạn và thường trực đối diện với chuyện tử sinh, vẫn hiện diện bên cạnh một con người hào hoa lịch duyệt nơi đời thường và những phút giây mộng mơ, lãng mạn khi con tầu đang bình yên quay về phi trường thân yêu, sau một phi vụ đầy hiểm nguy vừa hoàn tất.

Có những trang viết đầy tự hào hãnh tiến với chiến công, nhưng người đọc cũng sẽ phải chùng lặng xuống khi người phi công diễn tả tâm trạng thật nặng nề u uẩn, vì trên chuyến bay của họ đang mang theo thân xác bạn mình bọc trong poncho hay trong cỗ quan tài lạnh lẽo. Và hẳn chắc độc giả của Lý Tưởng đã cùng cảm nhận và chia sẻ những đoạn văn bộc lộ tận cùng cảm xúc của người phi công, khi phải đến nhà người bạn cùng phi đoàn để báo tin đau buồn, hay những lúc đứng trực canh quan tài đồng đội trong Tử sĩ đường hoặc tại tư gia.

Những trang viết ấy như thể là những chương tiếp theo của Đời Phi Công và Buồn Vui Phi Trường.

Mỗi khi nghe thấy hoặc đọc được ở đâu đó câu nói bất hủ Không bỏ anh em không bỏ bạn bè, bên cạnh ý nghĩa cao đẹp của tình huynh đệ chi binh, người ta cũng sẽ phải nhớ nhiều đến văn chương Không Quân.

Đào Vũ Anh Hùng


(Không bỏ anh em không bỏ bạn bè là tên một bút ký của phi công Đào Vũ Anh Hùng (1943- ), hiện ở Dallas, đã đăng trên Lý Tưởng và trong Tuyển tập Những Mảnh Trời Khác Biệt. Nội dung kể lại hành trình thần kỳ tìm về sinh lộ, về với bạn bè, anh em đồng đội của Tr/úy phi công Trần Duy Nguyện. Trong một phi vụ liên lạc hành quân Nha Trang-Pleiku, chiếc L.19 của anh bất ngờ gặp trục trặc kỹ thuật và rơi xuống vùng đèo M’ Drak hiểm trở núi non hùng vĩ. Tất cả mọi phương tiện cố gắng tìm cứu của đồng đội đều vô vọng. Anh Trần Duy Nguyện thoát chết và chui ra được khỏi buồng lái, nhưng thương tích trầm trọng khắp thân thể, lại bị gẫy cánh tay trái.Tuy vậy trong tột cùng niềm nhớ gia đình, đơn vị, đồng đội, người phi công đảm lược này đã thu hết sức lực, nén chịu mọi đau đớn, cố gắng bò lết tấm thân tàn ma dại, sau hơn ba ngày đêm chiến đấu với tử thần giữa núi rừng bạt ngàn thâm sâu cùng cốc, tìm ra đến được con lộ có xe đò chạy qua, và rồi được đưa về với gia đình, với anh em, bạn bè).

*
Xin được nêu danh tính những người đã cùng làm nên diện mạo dòng văn chương Không Quân nói trên (có thể vẫn còn thiếu sót ngoài ý muốn và nhiều danh tính cũng xin không ghi cấp bậc, chức vụ kèm theo):

. Tại VP.TMP.CTCT/BTLKQ (từ những ngày đầu tiên): Huy Quang Vũ Đức Vinh, Dương Hùng Cường, Nguyễn Đình Thiều, Phan Lạc Giang Đông, Trần Ngọc Ẩn, Minh Triệu (Ngô Văn Đắc), Chu Tấn (Trần Như Huỳnh), Lê Văn Trước, Hoàng Song Liêm, Huy Sơn (Dương Quang Thuận), Thanh Chương (Trần Quang Tịnh), Trần Kim Nho, Trần Kiêm Thêm, Hoàng Bá Thủy (Trần Bất Bạt, Hoàng Thụy Kha), Phạm Hồ (Phạm Trọng Tâm), Lưu Văn Giỏi...

Sau đợt đồng hóa Hạ sĩ quan & binh sĩ năm 1967 có thêm các nhà văn Thế Phong (Thế Phong Đỗ Mạnh Tường là nhà văn tiếng tăm từ rất lâu trong văn giới. Ông có rất nhiều tác phẩm các loại đã được xuất bản. Chủ trương nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến, một cơ sở văn nghệ đặc biệt trong sinh hoạt văn chương miền Nam), nhà văn Hồ Phong (tên thật Kiều Văn Bảng), nhà văn Khải Triều (Nguyễn Văn Tuy, là nhà báo, nhà thơ, sinh hoạt báo giới Sài Gòn cũng từ lâu, trong nhóm phụ trách Bán nguyệt san Văn học Thời đàm Quần Chúng, Tổng Thư ký tuần báo Diễn Đàn Chính đảng). Cuối cùng là Trần Ngọc Tự (từ Trường Bộ binh Thủ Đức chuyển sang KQ). Và các sĩ quan Phòng Thông Tin Báo Chí (TTBC) như Đặng Trần Dưỡng (sĩ quan hoa tiêu trực thăng kỳ cựu), Đinh Sinh Long (hoa tiêu ngành Quan sát).

Nhiều người trong số này còn đảm nhận vai trò phóng viên đi làm phóng sự tại các đơn vị theo nhu cầu.

Đặc biệt là sự góp mặt với tờ Lý Tưởng nơi thời gian đầu của vị Tư lệnh KQ đương nhiệm khi ấy Nguyễn Cao Kỳ.


. Tại các đơn vị KQ:

_ Là các vị chỉ huy cao cấp: Tr/tướng Tư lệnh Trần Văn Minh, Ch/tướng Tư lệnh Sư đoàn 1 Nguyễn Đức Khánh (bút hiệu MYK), Đại tá Trưởng phòng Hành quân Chiến cuộc BTLKQ Phùng Ngọc Ẩn, Đại tá Liên đoàn trưởng Liên đoàn Kiểm báo Phạm Duy Thân (bút hiệu Hồng Yến Điệp Minh Hoàng), Đại tá Nguyễn Quang Tri (Đặc Trách Phòng Không BTLKQ)...

_ Cấp bậc thấp hơn, phục vụ các nhiệm vụ khác nhau, hoặc là phi công tại các Phi đoàn: Nhân Hậu (TMP.CTCT sư đoàn 1 KQ), Cung Trầm Tưởng, Ngy Cao Uyên (Tr/tá Nguyễn Cao Nguyên), Trần Tam Tiệp (Đạo Cù), Phùng Thế Hải (TTHLKQ Nha Trang). Phi công bay khu trục có Lê Bá Định, Nguyễn Kim Long, Trần Viễn Phương (Trần Duy Mỹ), Zô Ta (Phạm Bình An)_ngành Vận tải có Tinh Cầu (Trần Đình Hòe),Bằng Phong (Đặng Văn Âu)..._Trực thăng có Đào Vũ Anh Hùng (Đào Bá Hùng, đã từng cộng tác với nhiều nhật báo, tuần báotrước ngày vào KQ như Sống, Hòa Bình, Sóng Thần, Ngày Nay, Đời, Thứ Tư tuần san…),_ngành Quan sát có Võ Ý, Kha Lăng Đa (tên thật Hồ Danh Lịch, ngoài các truyện ngắn, còn là tác giả những bài thơ vui về sinh hoạt KQ). Các tác giả khác như: Võ Quang Thẩm, Vũ Ngô, Mây Trời..... là những người có bài rất đều đặn và thường xuyên.

"Tinh Cầu" Trần Đình Hòe


Còn nhiều tác giả KQ khác cộng tác không thường xuyên, không thể nhớ hết. Cùng các cây bút quân đội thuộc Quân Binh chủng bạn và nhà văn bên ngoài dân sự, tùy theo từng thời điểm, từng số báo... Danh sách này khá dài với những tên tuổi như: Thái Văn Kiểm, Nguyễn Mạnh Côn, Tuệ Mai, Hoàng Hương Trang, Tạ Tỵ, Nguyễn Đình Toàn, Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn, Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Thùy, Thanh Nam, Hoàng Hải Thủy, Hà Huyền Chi, Duy Năng, Uyên Thao, Vị Ý, Thảo Trường, Phạm Huấn, Cao Thế Dung, Tần Vy, Nguyễn Thụy Long, Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Triều Linh, Ninh Chữ, Văn Quang, Mai Trung Tĩnh, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê, Hoàng Ngọc Liên, Huy Phương, Phạm Duy, Phan Lạc Phúc, Phan Minh Hồng, Song Hồ, Song Nam...


. SINH HOẠT BÁO CHÍ KHÁC:

Ngoài tờ Lý Tưởng ở BTL/KQ, có thời kỳ các đơn vị KQ làm báo riêng cho đơn vị mình và lưu hành trong phạm vi hạn hẹp. Không có nhiều tài liệu về các tờ nội san này. Có những tờ in ấn công phu, trình bầy đẹp, nhưng cũng có những tờ thực hiện bằng hình thức quay ronéo đóng lại thành tập. Riêng một vài tên báo đã dễ dàng cho biết nơi chỗ trú đóng của đơn vị:
Cánh Thép (Sư đoàn 5), Trại Chúng Ta (Trại Khóa sinh), Phù Sa (Sư đoàn 4), Lướt Gió (Đà Nẵng), Trách Nhiệm, Gió mới, Đôi Cánh Bạc, Cánh Én, Phù Cát, Gió Cát (Căn cứ 20 Chiến thuật Phan Rang ), Mây Trường Sơn, Phi Hổ, Mạch Sống…

Nổi trội và đáng kể có tờ Gió Mới của Không đoàn 23 (tiền thân của Sư đoàn 3 KQ Biên Hòa do Chu Tấn Trần Như Huỳnh phụ trách) hay Cánh Thép của Sư đoàn 5 (giai đoạn Hoàng Như An phụ trách), và Phù Sa của Sư đoàn 4 ( khi Tr/tá Trần Như Huỳnh về đảm nhận TMP.CTCT Sư đoàn).

Về nội dung chuyên biệt, tại VP.TMP.CTCT/BTLKQ còn có tờ Tin Không Quân do Phòng TTBC đảm trách, đăng tải các hoạt động về chiến sự của KQ và Tập san Chính Huấn của P. Kế Hoạch & Chính huấn, chuyên về nội dung học tập chính trị, sinh hoạt đơn vị.

Cũng còn có Tập san Quân huấn Không quân thuộc Văn Phòng Tham Mưu Phó Huấn Luyện/BTLKQ, chuyên về các đề tài huấn luyện, lãnh đạo chỉ huy và điều hành đơn vị.


. CÁC TÁC PHẨM ẤN HÀNH:

Ngoài các tác giả và tác phẩm liên quan đã giới thiệu ở các phần bên trên, còn có một số các tác phẩm của các tác giả KQ khác được xuất bản:

. PHAN LẠC GIANG ĐÔNG:
_ Trở Mình, thơ 1965.
_ Đắc Khanh Và Mầu Sắc Quê Hương, thơ 1967.
_ Thông Điệp, thơ 1969.


Phan Lạc Giang Đông


. THANH CHƯƠNG:
_ Cỏ Cháy (thơ, in chung với Hồ Phong) 1972
_ Sầu Mê Điên, thơ 1973.

. TRẦN BẤT BẠT (Hoàng Bá Thủy):
_ Cuồng Lũ, thơ 1971.

. HỒ PHONG:
_ Người Phi Công Chưa Về (truyện dài) 1971.
_ Mái Tóc Một Đời (truyện dài) 1971.
_ Cỏ Cháy (Thơ, in chung với Thanh Chương) 1972.
_ Đồng Lửa (truyện) 1969.
Và góp mặt trong vài tuyển tập gồm nhiều tác giả.

. ĐÀO VŨ ANH HÙNG:
Ngoài sự góp mặt trong hai Tuyển tập “Những Mảnh Trời Khác Biệt” và “Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến”, còn có: Ngày Ấy Khi Ta Yêu Nhau (tập truyện, in chung với Võ Hà Anh).

. Tuyển Tập Truyện ngắn NHỮNG MẢNH TRỜI KHÁC BIỆT (gồm sáng tác của 9 tác giả, Lý Tưởng ấn hành năm 1971):
Phượng và Dương (Dương Hùng Cường).
Không Bỏ Anh Em Không Bỏ Bạn Bè (Đào Vũ Anh Hùng).
Kỷ Niệm Hãi Hùng (Đặng Trần Dưỡng).
Bay Vào Giông Tố (Huy Sơn).
Bay Trên Đất Bắc (Lê Bá Định).
Gẫy Cánh (Phùng Ngọc Ẩn).
Mây Thẳm Trời Cao (Minh Triệu).
Ông Xếp Tầu Bay (Phùng Thế Hải).
Phố Hoa Vàng (Trần Viễn Phương).

Lê Bá Định


Đây là những truyện ngắn hay đã được đăng tải trên Lý Tưởng và Tuyển tập này mở đầu cho dự trù hình thành nhà xuất bản Lý Tưởng, nhưng rồi dở dang bất thành. Sau này có tái bản ở hải ngoại và thêm vào những sáng tác của các tác giả KQ khác cũng như thân hữu.

. Tuyển Tập THƠ TRUYỆN KHÔNG QUÂN THỜI CHIẾN (gồm sáng tác của 25 nhà thơ, nhà văn KQ và Thân hữu, do nhà văn Thế Phong và Hồ Phong thực hiện, nhà xuất bản Vàng Son in ấn và phát hành, Sài Gòn 1974).
Các tác giả trong Tuyển tập này gồm có:

Trần Văn Minh, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Phùng Ngọc Ẩn, Trần Tam Tiệp, MYK, Huy Quang, Nhân Hậu, Dương Hùng Cường, Cung Trầm Tưởng, Đào Vũ Anh Hùng, Đặng Văn Âu, Võ ý, Kha Lăng Đa, Mây Trời, Nguyễn Cao Nguyên, Chu Tấn, Kiêm Thêm, Vũ Ngô, Phạm Hồ,Lê Bá Định, Hồ Phong, Thế Phong, Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Hoàng Hương Trang, Phan Nhật Nam.

. TUYỂN TẬP NHẠC Cánh Chim Quê Hương do Đoàn Công Tác Chính huấn thuộc VP.CTCT/BTLKQ thực hiện tháng 6/1972, để tưởng niệm cố Đ/úy Trần Thế Vinh, người phi công lẫy lừng đã bắn hạ hơn hai mươi chiến xa T.54 của cộng quân tại chiến trưởng vùng hỏa tuyến Quảng Trị và anh dũng hy sinh đền nợ nước ngày 9.4.1972cũng tại nơi đó (gồm các sáng tác của Nhạc sĩ Phạm Duy, và các tác giả trong đoàn như Ngô Mạnh Thu, Nguyễn Quốc Trí, Nguyễn Trung Cang, Duy Quang...).


. Nhà xuất bản CON ĐUÔNG của họa sĩ Ngy Cao Uyên (Tr/tá Nguyễn Cao Nguyên)

Được họa sĩ thành lập năm 1974 tại Cần Thơ, địa phương nơi ông phục vụ, với mong muốn làm nền tảng cho việc phát triển văn hóa văn nghệ vùng đồng bằng sông Cửu Long, khởi đi từ thành phố này. Ông tổ chức những buổi sinh hoạt văn nghệ tại địa phương với sự có mặt của nhiều văn nghệ sĩ thân hữu tên tuổi từ Sài gòn xuống cùng tham dự.

Nhà xuất bản Con Đuông, bước đầu ấn hành những tác phẩm của các cây bút thân hữu tên tuổi đã thành danh như Cung Trầm Tưởng, Ta Tỵ, Hoàng Anh Tuấn, Văn Quang và các cây bút mới có nhiều triển vọng, bắt đầu với nhà thơ Bùi Đức Long, quân nhân tại SĐ 4 KQ.

Các ấn phẩm của Con Đuông thường chỉ có số lượng vài chục và không quá 100 ấn bản, được thực hiện cách trang nhã đầy công phu, rất lạ: những trang ruột quay ronéo trên giấy dầy, bìa chỉ in chữ mầu tên tác phẩm, có hình chân dung tác giả là ảnh chụp dán vào, và mỗi bìa là một tranh vẽ tay của họa sĩ Lê Triều Điển, quân nhân thuộc Khối CTCT/SĐ 4 KQ.

*
Ngoài sinh hoạt văn chương báo chí kể trên, cũng còn có những tên tuổi KQ nổi bật ở nhiều lãnh vực, bộ môn khác nữa, Xin được giới thiệu:


. Về hội họa:

. Họa sĩ NGY CAO UYÊN (1933- ): Tên thật Nguyễn Cao Nguyên. Ông theo học cùng khóa sĩ quan cơ khí KQ bên Pháp với thi sĩ Cung Trầm Tưởng. Là người rất đam mê hội họa và sinh hoạt trong giới này liên tục cho đến tận bây giờ. Những năm 1945-1947, ông bắt đầu thụ giáo họa sĩ Lê Quốc Lộc, một trong những người tốt nghiệp khóa cuối cùng trường Mỹ thuật Đông Dương. Sau đó ông có cơ hội theo học với họa sĩ bậc thầy Nam Sơn (Nguyễn Vạn Thọ 1890-1973), họa sĩ đầu tiên của hội họa đương đại Việt Nam, người đồng sáng lập trường Mỹ thuật Đông Dương với danh họa Tardieu, và trực tiếp giảng dậy tại đó.

Những năm 1965-1970, ông có thời gian theo học với họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908-1993), cũng là một họa sĩ nổi tiếng của hội họa Việt Nam thời kỳ đầu, nổi tiếng với nghệ thuật tranh sơn mài. Trong thời gian này họa sĩ Ngy Cao Uyên sáng tác nhiều mẫu vễ để công ty sơn mài Thành Lễ thực hiện trên các sản phẩm.

Năm 1966, ông thực hiện bộ tranh đồ họa, vẽ các thứ nghề cổ truyền của xã hội Việt Nam ngày xưa (khoảng gần 20 bức, được in ra trên loại giấy dầy, khổ 18cm x 24cm, với các nghề như: làm trống, làm quạt giấy, gò hàn, rèn, làm giò chả, nghề may, nghề mộc, chạm khắc, khảm trai, làm sơn mài, in mộc bản, làm ô, đóng giầy, nghề chằm nón, nghề kim hoàn, đồ tể...).

Họa sĩ Ngy Cao Uyên vẽ nhiều thể loại từ lụa, sơn mài, sơn dầu, mầu nước, đồ họa, trừu tượng, hiện thực. Riêng về tranh lụa, bút pháp của ông có nét riêng biệt, khác với tranh lụa truyền thống. Tranh của ông đã được triển lãm nhiều lần tại Việt Nam cũng như ngoại quốc ở Paris, San Francisco, Maine (Hoa Kỳ) trước 1975.
Ông là một trong những người thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ tại Sài gòn năm 1966, và đảm nhận vai trò chủ tịch tiên khởi.

Cấp bậc và chức vụ cuối cùng của ông là Trung tá Không đoàn trưởng KĐ 40 Bảo Trì & Tiếp Liệu, Sư đoàn 4 KQ Cần Thơ.
Thời gian phục vụ dưới Cần Thơ, ông chủ trương nhà xuất bản Con Đuông.

Sau 30.4.1975, ông sang Hoa Kỳ và tiếp tục vẽ, đồng thời giảng dậy về hội họa. Ông cũng có nhiều lần triển lãm các sáng tác mới và có phòng tranh riêng ở Washington D.C từ 1995.

Ông có về Việt Nam triển lãm tranh của mình năm 2015.

Những năm 1975-1976, ông nghiên cứu và thực hiện cách vẽ tranh Âm họa, gọi đơn giản là Rửa tranh, một lối vẽ hoàn toàn mới lạ, ý tưởng phát triển từ kỹ thuật tranh sơn mài. (Vẽ tranh theo nghệ thuật, kỹ thuật này,được họa sĩ giải thích phải đi qua trình tự là: bức tranh, sau khi vẽ xong bằng mầu nước trên giấy, sẽ đem ngâm trong nước cho mầu sắc loang ra, tan bớt. Sau đó người họa sĩ sáng tác sẽ chỉnh sửa các đường nét, mảng mầu theo ý muốn để hoàn thành).

Ông cũng còn làm thơ và viết văn. Sáng tác của ông ngoài việc gửi đăng trên tờ Lý Tưởng, còn được in chung trong Tuyển Tập Thơ Văn Không Quân Thời Chiến năm 1974.

Ông phụ trách việc trình bầy và minh họa cho tờ Lý Tưởng giai đoạn đầu.

Họa sĩ Ngy Cao Uyên hiện sinh sống tại Minnesota Hoa Kỳ.


. Họa sĩ CAO BÁ MINH (1942- ). Ông là một trường hợp đặc biệt trong giới hội họa. Chỉ tự học do đam mê và có thiên khiếu với mầu sắc, không theo học hội họa với bất cứ ai hay trường lớp hoặc sách báo, nhưng lại thành danh rất sớm chỉ sau mấy năm cầm cọ.

Ông bắt đầu vẽ từ năm 1966-1967, khi nhập ngũ vào KQ được ít lâu. Phục vụ tại Khối CTCT/BTLKQ, rồi thuyên chuyển ra Đà Nẵng năm 1968.

Ông được coi như là một họa sĩ tranh sơn dầu theo trường phái trừu tượng và siêu thực. Ông có cách dùng mầu và đường nét bố cục trong tranh rất lạ, mang tính đặc trưng. Tranh vẽ cũng thường có khổ lớn.

Ông cũng thực hiện nhiều mẫu bìa cho các ấn phẩm của nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến do nhà văn Thế Phong chủ trương, cùng các bìa sách, minh họa, tranh phụ bản cho tác phẩm, sách báo của các thân hữu.

Ông có cuộc triển lãm đầu tiên tại Phòng Thông tin Hoa Kỳ ngoài Đà Nẵng năm 1969 rất thành công gây tiếng vang. Tiếp theo đó là những lần triển lãm tại Trung Tâm Văn hóa Pháp ở Sài Gòn và tại Cần Thơ, Đà Lạt. Dưới sự bảo trợ của các cơ quan ngoại giao tại Việt Nam, ông cũng từng đưa tranh của mình sang giới thiệu với công chúng hội họa Pháp và Đức quốc trước 1975.

Sang Hoa Kỳ định cư năm 1991, ông tiếp tục sáng tác hội họa và nổi tiếng hơn. Tại Hoa Kỳ, ông thực hiện rất nhiều cuộc triển lãm cá nhân ở Orange County, nơi ông cư ngụ, cũng như tại các nơi khác Chicago, Virginia... Ôngcũng có những lần trưng bầy tranh chung với các họa sĩ khác.

Ngoài việc vẽ tranh, ông cũng còn làm thơ và có tác phẩm xuất bản, tập thơ Áng Mây Trắng Xóa Rợp Bóng Chiều.

Họa sĩ Cao Bá Minh hiện sinh sống tại California.


. Về Âm nhạc và Ca nhạc:

Có rất nhiều những bản nhạc viết về KQ thật quen thuộc do các nhạc sĩ ngoài KQ sáng tác, đã giới thiệu hình ảnh đẹp của người chiến binh phi công KQ như: Không Quân hành Khúc (Văn Cao),Vùng Trời Mang Tên Ta, Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc, Điệp Khúc Trần Thế Vinh (Phạm Duy)_Hát Cho Người Vừa Nằm Xuống (Trịnh Công Sơn)_Bài Vinh Thăng Cho Một Loài Chim (Trầm Tử Thiêng)_Tuyết Trắng (Trần Thiện Thanh)_Một Chuyến Bay Đêm (Song Ngọc-Hoài Linh)...

Riêng bản Vùng Trời Mang Tên Ta được nhạc sĩ Phạm Duy viết cho KQ vào năm 1972, từng được đề nghị thay cho Không Quân Hành Khúc của nhạc sĩ Văn Cao, nhưng không được chấp thuận.

Bản hùng ca này có những câu như: Vùng trời mang tên ta những người con đất nước, chắp cánh lên trời cao với mộng ước hoa niên… Anh hoa tiêu bay vào khung trời, tôi vô tuyến bên người không rời, anh điều hành và tôi cơ khí, ôi bao la là vùng trời mang tên ta…

Và cũng có nhiều người KQ trong lãnh vực sáng tác nhạc:

. Nhạc sĩ LAM MINH ( ? ): Đây là bút hiệu của Đại tá Trần Minh Thiện sử dụng khi viết nhạc. Ông là tác giả hai nhạc phẩm viết theo điệu Paso Doble: Dấn Bước Thăng Trầm và Mơ Khúc Tương Phùng với những giai điệu và ca từ đẹp.

Hai nhạc phẩm này xuất hiện cùng với thời gian các phòng trà và vũ trường nở rộ vào những năm cuối thập niên sáu mươi.

Dấn Bước Thăng Trầm thật tươi vui hùng tráng, cất vang lời cổ võ thanh niên hăng say lên đường chiến đấu cho non sông đất nước, trong tinh thần hiên ngang hào sảng của tráng sĩ, luôn sẵn sàng xông pha, không ngại gì nguy khó. Bóng dáng người phi công phảng phất nhẹ nhàng nhưng rất rõ nét trong bản nhạc.

Bài này đã được nhiều ca sĩ trước năm 1975 như Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu trình bầy tại các phòng trà Sài Gòn và thu đĩa. Cũng được các thế hệ ca sĩ hải ngoại sau này trình bầy nhiều lần.

Mơ Khúc Tương Phùng nói về một tình yêu đẹp, thiết tha nồng cháy và không hề bi lụy thở than, dẫu có phải dở dang chia xa, vẫn tràn đầy tươi vui tin yêu trong nỗi ước mong buổi trùng phùng.

Nhạc phẩm này cũng được các ca sĩ Khánh Ly, Lệ Thu trình bầy và thu vào băng đĩa trước 1975. Vì nội dung không như Dấn Bước Thăng Trầm, nên ngoài các ca sĩ hải ngoại, các thế hệ ca sĩ trẻ trong nước cũng chọn để hát trong các chương trình của mình(Tam ca Áo Trắng, Đoan Trang…). Nhạc điệu bài hát cũng thường được dùng để mở đầu cho những buổi dạ vũ.


 



Không có nhiều chi tiết về năm tháng nhạc sĩ Lam Minh đã sáng tác hai bài này (đoán chừng thời ông còn trẻ, cuối năm mươi sang đầu thập niên sáu mươi, khi đã vào KQ), cũng như về các tác phẩm khác của ông. Ngoài thời gian trong đơn vị, ông còn là một nhạc sĩ chơi nhạc tại các phòng trà ở Nha Trang. Ông được biết đến như một người thật hiền lành, dễ mến và đầy khiêm tốn. Chính vì điều này, kể cả nhiều người thân cận trong KQ, ít người biết ông là tác giả hai bản nhạc thời danh nêu trên, huống hồ những người theo dõi sinh hoạt âm nhạc Việt Nam.

Đ/tá Trần Minh Thiện là Trưởng phòng Hành quân Chiến cuộc, VP.TMP.HQ, BTLKQ từ 1973 cho đến ngày cuối cùng. Ông là một trong những cánh chim đầu đàn của ngành Trực Thăng từ những ngày đầu. Thời gian KQVN còn phụ thuộc vào KQ Pháp ngày đó, sau khi tốt nghiệp phi công cánh quạt ở trường huấn luyện bay Marrakech, cùng với mấy người cùng khóa nữa, ông được đưa lên Paris để học lái trực thăng.

Ông là Chỉ huy trưởng tiên khởi của Phi đoàn trực thăng Thần Tượng 215 tái lập ở Đà Nẵng tháng 9/1964, đầu năm 1965 chuyển về Nha Trang (PĐ 215 đầu tiên là Phi đoàn huấn luyện ở Tân Sơn Nhất, thành lập đầu 1963, giải thể tháng 5/1964).

Không có được chi tiết nào về ông sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 ở hải ngoại, chỉ biết rằng ông đã kịp rời khỏi Việt Nam, và qua đời cách đây mấy năm.


. Nhạc sĩ NGÔ MẠNH THU (1938-2004): Đây là một tên tuổi quen thuộc trước đây tại Việt Nam cũng như hải ngoại sau này. Khi viết nhạc, ông sử dụng nhiều bút danh khác nhau như, Trần Tú, Trần Thái Mưu, Tâm Hòa…

Ông tốt nghiệp Thủ khoa Trường Ca Vũ Nhạc Phổ thông Sài Gòn năm 1956 và Thủ khoa bộ môn Ca Trưởng, Hợp xướng Trường Quốc gia Âm nhạc năm 1961.

Ngô Mạnh Thu


Ông sáng tác hàng trăm ca khúc đủ thể loại từ Tình ca, Du ca, Sinh hoạt ca, nhạc Thiếu nhi, nhạc Phật giáo…Có những bài nổi trội như Từ Một Cơn Mơ, Dòng Sông Trăng, Hoài Niệm...

Ông từng là Ca trưởng Ca đoàn Vô tuyến Việt Nam của đài phát thanh Sài Gòn, Ca trưởng Ca đoàn Lửa Việt, sinh hoạt ngoài dân sự.

Ông cũng là một trong những Trưởng trụ cột của Phong trào Du ca Việt Nam, đồng thời cũng là một Huynh trưởng Gia đình Phật tử.
Các Ban Tam ca Ngàn Thông, Tứ ca Mây Ngàn do ông thành lập trình diễn trên nhiều sân khấu. Nhưng ông được biết đến như là một nhạc sĩ nhiều hơn.

Trong quân ngũ, ông phục vụ tại Đoàn Công tác Chính huấn, thành lập năm 1970 (viết tắt CTCH), trực thuộc Phòng Kế Hoạch & Chính huấn, VP.TMP.CTCT /BTLKQ, phụ trách Toán Chiến Sĩ Ca (CSC).

Toán CSC có nhiệm vụ yểm trợ các buổi Học tập Chính trị tại các đơn vị qua việc trình bầy những bản hùng ca để cổ võ sĩ khí, tinh thần chiến đấu và phục vụ cho người lính KQ, bên cạnh việc thực hiện các buổi sinh hoạt Chính huấn đơn vị. Toán CSC khác với Ban Văn nghệ KQ thuộc Phòng Tâm Lý chiến, chuyên về trình diễn giải trí đơn thuần.

Ông sang Hoa Kỳ định cư tại California năm 1994 và hoạt động sôi nổi trong nhiều lãnh vực: giáo dục, văn học nghệ thuật, báo chí, phát thanh, sinh hoạt Du ca, sinh hoạt Phật sự...

Ông từ trần ngày 17.8.2004, thọ 67 tuổi.


. Nhạc sĩ NGUYỄN TRUNG CANG (1947-1985): Ông được biết đến nhiều qua nhạc phẩm nổi tiếng Thương Nhau Ngày Mưa hay các bản tình ca khác như Bước Tình Hồng, Bâng Khuâng Chiều Nội Trú, Mặt Trời Đen, Phiên Khúc Mùa Đông... bên cạnh các sáng tác thể loại nhạc trẻ cùng với Ban nhạc Phượng Hoàng, (thành lập năm 1970 và có các ca nhạc sĩ Lê Hựu Hà, Elvis Phương, Trung Vinh).

Là một trong những nhạc sĩ có tiếng tăm trong phong trào nhạc trẻ của giới trẻ Sài Gòn thập niên 1970. Ngoài việc viết nhạc. ông còn sử dụng được nhiều nhạc cụ khác nhau, guitar lead, bass, keyboard...

Nhạc của ông được nhiều hãng Băng đĩa, công ty sản xuất âm nhạc, thu băng và phát hành rộng rãi.

Ông phục vụ trong Toán CSC Đoàn CTCH (có giới thiệu nơi phần nói về nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu bên trên).

Các ca sĩ hải ngoại và trong nước tiếp tục trình bầy các sáng tác của ông sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang là một người tài hoa nhưng mệnh yểu. Sức khỏe ông không được tốt cho lắm vì có bệnh hen suyễn kinh niên khá nặng. Ông từ trần tại Sài Gòn năm 1985 khi còn trẻ, mới 38 tuổi.

Ngoài các nhạc sĩ sáng tác vừa nêu, KQ cũng có những ca sĩ thời danh:


. Ca sĩ SĨ PHÚ (1942-2000): tên thật là Nguyễn Sĩ Phú, cấp bậc và chức vụ cuối cùng của ông là Th/tá Trưởng khối CTCT Căn cứ 20 Chiến Thuật KQ Phan Rang. Trước đó có thời gian ông phụ trách Ban Văn nghệ KQ, P.TLC/BTLKQ.

Ông vốn là một phi công trực thăng thuộc KĐ 74 Chiến thuật dưới Cần Thơ. Đam mê âm nhạc và có chất giọng trầm ấm thiên phú, ông bắt đầu nổi danh tại Sài Gòn từ 1966 qua những chương trình truyền hình của KQ, trong phần văn nghệ với những bản tình ca thời tiền chiến và các nhạc phẩm trữ tình của các nhạc sĩ đương thời.

Giọng hát của ông cùng phong thái lãng tử, được người hâm mộ vô cùng yêu mến. Tiếng hát Sĩ Phú được xếp ngang hàng với các danh ca Anh Ngọc, Duy Trác. Ông đi hát tại một vài phòng trà và thu nhiều băng đĩa, cá nhân cũng như cùng với các ca sĩ khác.

Th/tá Sĩ Phú còn đảm nhận vai chính trong cuốn phim Cánh Chim Tự Do thực hiện năm 1971-1972, nhằm giới thiệu nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc trên không trung của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và mời gọi thanh niên gia nhập KQ. Cuốn phim có ý nghĩa như một Đời Phi Công của điện ảnh.

Ra đến hải ngoại sau ngày 30.4.1975, ngoài việc đi làm cho một công ty Hoa Kỳ ngành viễn thông, ông còn sinh hoạt ca nhạc một thời gian dài trước khi lâm trọng bệnh phải dừng lại.

Ông từ trần ngày 19.7.2000 khi chưa qua tuổi sáu mươi.


. Ca nhạc sĩ DUY QUANG (1950-2012): tên thật Phạm Duy Quang, và hai người em là Phạm Duy Minh, Phạm Duy Hùng, những người con của nhạc sĩ Phạm Duy, cả ba đều cùng phục vụ trong Toán CSC/Đoàn CTCH. Đây là trường hợp ưu ái đặc biệt Không Quân dành cho gia đình người nhạc sĩ đã có nhiều cống hiến cho văn hóa nghệ thuật nước nhà.


Duy Quang được biết đến như đầu đàn của ban nhạc gia đình The Dreamers, thường trình diễn nhạc ngoại quốc trên nhiều sân khấu và các Club của quân đội Hoa Kỳ thời gian đó tại Việt Nam. Mãi sau ông mới hát riêng như một ca sĩ và thành danh với những bản tình ca của thân phụ, bên cạnh những bản nhạc trữ tình của các tác giả khác.

Ông sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ như guitar lead, bass, keyboard.

Tiếng hát Duy Quang được đánh giá là ấm và ngọt, diễn tả bài hát bằng phong thái rất tự nhiên một cách trọn vẹn, không hề làm dáng.

Băng nhựa có tiếng hát của ông và ban nhạc The Dreamers thường có số tiêu thụ khá lớn.

Sau 30.4.1975, trước khi ra được hải ngoại tiếp tục con đường ca hát, Duy Quang và mấy người em trai có thời gian bị kẹt lại trong nước vài năm.

Là người tài hoa, nhưng trong cuộc sống tình cảm và gia đình, ông gặp nhiều lận đận, trắc trở và buồn phiền.

Duy Quang cũng có thử trong lãnh vực sáng tác và chuyển thể lời Việt các bài hát ngoại quốc nhưng không mấy thành công. Đáng kể chỉ có bài Kiếp Đam Mê (nguồn cảm hứng sáng tác từ thơ của Huyền Công) ở hải ngoại.

Có thể đã không có một Duy Quang và các người em trong sinh hoạt nghệ thuật. Được biết ông bà Phạm Duy-Thái Hằng đã chỉ muốn các con mình theo đuổi việc học hành là chính; và ca hát, âm nhạc chỉ là phụ mà thôi. Nhưng trước sự đam mê mãnh liệt của các con, ông bà cũng phải thuận theo và hướng dẫn thêm cho tất cả về chuyên môn trong âm nhạc.

Khoảng năm 2004, Duy Quang trở về Việt Nam ca hát, theo bước thân phụ, nhạc sĩ Phạm Duy và người em Duy Cường (một nhạc sĩ soạn hòa âm nổi tiếng).

Duy Quang quay lại Hoa Kỳ để điều trị khi lâm trọng bệnh và từ trần vào ngày 19.12.2012, để lại nhiều tiếc thương cho gia đình cùng người hâm mộ.


. Ca nhạc sĩ MINH PHÚC (1949-2019): tên thật Đặng Hữu Phúc.

Có niềm đam mê âm nhạc mãnh liệt, lại được đào tạo căn bản, nên Minh Phúc có trình độ chuyên môn giỏi, khá chuyên nghiệp, nhất là về hòa âm, phối khí. Ông là một trong những học trò xuất sắc của lớp nhạc do vợ chồng nhạc sĩ Nguyễn Ngọc-Huyền Nga phụ trách (nằm trong con hẻm bên hông chùa Ngọc Hoàng, đường Phạm Đăng Hưng Sài Gòn), một nơi đã đào tạo nhiều tài năng ca nhạc. (Nhạc sĩ Huyền Nga tên thật Nguyễn Thị Nga 1929-2014, là một nữ nhạc sĩ Hạ uy cầm, hiếm hoi và nổi tiếng từ đầu những năm một chín năm mươi).

Ông có khả năng về cả thanh nhạc lẫn khí nhạc. Thường chơi guitar lead, guitar bass và cả keyboard trong ban nhạc. Ngoài việc đệm đàn, ông là giọng hát phụ họa cho nhiều tiếng hát tên tuổi trên các sân khấu trình diễn và phòng trà.

Minh Phúc thường hát những ca khúc ngoại quốc đủ thể loại khi ở trong ban nhạc The Top Five rồi Blackcaps (cùng với Tuấn Ngọc, Tùng Giang, Paolo...), chuyên trình diễn tại các Club quân đội Mỹ, cũng như tại các phòng trà và vũ trường như Chez Jo Marcel, Tự Do…, đặc biệt khi phong trào nhạc trẻ thịnh hành một thời. Sau này, nhất là khi ra hải ngoại, Minh Phúc mới hát thêm các ca khúc Việt Nam cùng với người bạn đời là ca sĩ Minh Xuân (ban nhạc Ba Con Mèo).

Minh Xuân & Minh Phúc (trước 1975)


Minh Phúc cũng có mặt trong Toán CSC, Đoàn CTCH ngay từ ngày thành lập.

Vợ chồng Minh Phúc sang Hoa Kỳ vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975. Họ tiếp tục con đường sinh hoạt ca nhạc và vẫn giữ được tên tuổi với nhiều thành công.

Minh Phúc từ trần ngày 19.4.2019 tại California, sau hơn bốn năm chiến đấu với bạo bệnh.


. Ca sĩ ANH KHOA (1948- ): tên thật Trần Công Khai. Ông phục vụ trong Ban Văn nghệ KQ và là tiếng hát chủ lực của những buổi trình diễn tại các đơn vị. Anh Khoa là một giọng hát truyền cảm quen thuộc và được mến mộ của sân khấu ca nhạc Việt Nam trước năm 1975. Có chất giọng trầm buồn rất riêng khi trình bầy bài hát, như thể lời thủ thỉ tự sự, kể lể tha thiết, qua những nhạc phẩm trữ tình, lãng mạn thời đó, đặc biệt là những tình khúc của nhạc sĩ Phạm Duy hay những Bài Không tên của nhạc sĩ Vũ Thành Anvà tình ca của những tác giả khác nữa.


Anh Khoa cùng quê đất biển Phan Thiết với nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Có năng khiếu ca hát bẩm sinh và say mê với nghệ thuật này, nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên không có điều kiện theo học một trường lớp chuyên môn nào về âm nhạc. Từ hồi niên thiếu, đã từng đại diện cho tỉnh nhà, dự thi và đoạt giải nhất về ca hát dành cho lứa tuồi thiếu nhi,trong một chương trình thi đua văn nghệ lớn tại rạp Quốc Thanh Sài Gòn.

Tự mày mò học hỏi và tìm hiểu qua sách báo về nhạc lý cũng như kỹ thuật sử dụng guitar. Thế nhưng Anh Khoa lại may mắn khi đạt đến danh vọng và thành công khá nhanh, chỉ một thời gian khá ngắn, khoảng chừng vài năm sau khi thử sức ở một hai ban nhạc tỉnh lẻ không suông sẻ, rồi đặt chân đến Sài Gòn năm 1969. Một phần cũng nhờ sự tận tình nâng đỡ của nhạc sĩ lão luyện đàn anh Jo Marcel (1938- ), đã đưa Anh Khoa từ một nhạc sĩ chơi bass trong ban nhạc, bỗng chốc vụt sáng thành một tiếng hát ăn khách, xuất hiện hàng đêm tại các phòng trà ngày đó như Ritz, Tự Do, Queenbee… và trong nhiều băng đĩa nhạc như Shotguns, Thương Yêu, Hãng Dĩa Việt Nam...

Anh Khoa sinh hoạt bền bỉ với âm nhạc, kể cả sau 30.4.1975, bị kẹt lại trong nước hơn mười năm cho đến khi lập gia đình năm 1989 và sau đấy sang Đông Âu sinh sống (vợ ông người Hungary, con gái một viên chức ngoại giao). Điều này khiến Anh Khoa có thời gian bị gián đoạn với âm nhạc Việt Nam. Ông đã sớm trở lại khi có sự cộng tác với các Trung Tâm Ca nhạc bên California như Asia, Thúy Nga Paris…

Năm 2015, Anh Khoa có về Việt Nam tham gia một chương trình ca nhạc cùng với nhạc sĩ Đức Huy.

Ông cũng thực hiện một vài đĩa và album nhạc riêng cho mình.

Anh Khoa là người chung thủy và yêu quý gia đình. Dù có những dịp đi đây đó để trình diễn, nhưng Hungary vẫn là nơi chỗ ông quay về bên vợ con, vì đã chọn nơi này là quê hương thứ hai cho đến cuối cuộc đời.

Thành phố Houston Hoa Kỳ cũng là một chọn lựa khác của ca sĩ Anh Khoa.

*

Tháng Tư năm 1975 đầy oan khốc và cay đắng, đã đem mây đen mù mịt bao phủ khắp vùng trời quê hương. Những cánh chim tan tác lìa đàn, vội vã cất cánh, hối hả bay đi tìm phương trời tự do, bỏ lại bên dưới đôi cánh sắt, phi trường thân yêu cùng tất cả mọi thứ thân quý của bao tháng năm chắt chiu.

Và cho đến ngày hôm nay, đã qua mấy mươi mùa thương hận, giữa những trang chiến sử oai hùng lẫm liệt vẫn luôn được nhắc lại, những điều trình bầy trên đây chừng như lạc lõng và không cần thiết cho lắm.

Nhưng có lẽ cũng không đến nỗi thừa thãi, vì đó là một phần trong tháng năm ký ức đẹp đẽ của dòng sinh hoạt văn học nghệ thuật KQ, bên cạnh hình ảnh những cánh chim vẫy vùng trên khắp vùng trời tổ quốc Việt Nam thân yêu, đóng góp phần máu xương cho biết bao nhiêu chiến công hiển hách trong sử xanh một thời.

Và cũng để nói lên bản chất của chế độ tự do đích thực Việt Nam Cộng Hòa, mà người văn nghệ sĩ, cách riêng văn nghệ sĩ quân đội, trong đó có văn nghệ sĩ Không Quân, luôn được hoàn toàn tự do sáng tác và sinh hoạt, không bao giờ phải cúc cung giữ vai trò văn nô, làm công cụ tuyên truyền cho chế độ, như tất cả mọi tầng lớp văn nghệ sĩ dưới chế độ Cộng sản.

Ngọc Tự.
tháng 6/2020.

 

Reader response => (Bên dưới những đôi cánh sắt (tt)

Rate this item
(0 votes)