Tài Liệu KQ
        
        BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
* Đại tá Vũ Thượng Văn – văn võ song toàn
Trong năm 2001, anh em Không Quân ở tiểu bang Victoria được hân hạnh đón tiếp cựu Đại tá Vũ Thượng Văn (VTV), nguyên Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình, BTL/KQ, từ Pháp sang thăm Úc.
Trước năm 1975, tôi chỉ được nghe tên tuổi NT VTV qua lời kể của ông Lê Bá Định khi ông đang giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, đồn trú tại phi trường Cù Hanh, Pleiku.
Nguyên từ khi được thành lập vào cuối năm 1970, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (cùng với Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku) tạm thời trực thuộc Sư Đoàn 2 KQ ở Nha Trang trong lúc chờ Sư Đoàn 6 KQ được thành lập tại Pleiku.
Tới khoảng đầu năm 1972, Trung tá Lê Bá Định (nguyên là Trưởng Khối CTCT Pleiku mà tôi là một nhân viên dưới quyền) bật mí cho tôi biết Đại tá VTV sẽ ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng SĐ6KQ.
Theo lời ông Định, Đại tá VTV xuất thân Trưởng Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, là một trong những phi công phản lực đầu tiên của KQVN (học ở bên Pháp), từng nắm giữ những chức vụ quan trọng tại BTL/KQ; là một người văn võ song toàn, ông rất xứng đáng giữ chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn cuối cùng của KQVN.
Xưa nay ông Lê Bá Định ít khi khen ai cho nên khi thấy ông hết lời ca tụng Đại tá VTV, tôi tin rằng ông VTV phải tài giỏi hơn người.
Tiếc thay, việc đó đã không xảy ra. Cuối năm 1972, Đại tá Phạm Ngọc Sang ra Pleiku nhận chức Sư đoàn trưởng SĐ6KQ (để rồi được vinh thăng Chuẩn tướng vào đầu tháng 4/1974).
Người thất vọng nhiều nhất trước việc bổ nhiệm này phải là ông Lê Bá Định.
Là một sĩ quan cấp úy, tôi không đủ tư cách nhận xét, đánh giá, phê bình các vị niên trưởng cho nên chỉ có thể viết có lẽ ông Lê Bá Định và ông Phạm Ngọc Sang “khắc tuổi” nhau, đưa tới việc vào một ngày không mấy đẹp trời nọ (thật ra ở Pleiku có ngày nào trời đẹp!), ông Lê Bá Định bị “dzăng” khỏi chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Trung tá Lê Văn Bút, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 229 Lạc Long lên thay.
Sau này tôi được nghe nhiều nguồn tin khác nhau về nguyên nhân khiến ngày ấy Đại tá VTV không ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng, chức vụ chắc chắn sẽ giúp ông lên tướng. Người thì nói ông VTV không muốn nhận trọng trách ở vùng Cao Nguyên, nơi tình hình chiến sự luôn luôn sôi động trong suốt cuộc chiến; người thì nói vì ông VTV giỏi về tham mưu, vào giờ phút chót Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ, đã can thiệp với Trung tướng Trần Văn Minh giữ ông Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình - tức Đại tá VTV - ở lại Tân Sơn Nhất.
* * *
Xét về xuất thân, vai vế trong quân chủng, tay nghề (bay bổng) có thể viết hai ông Phạm Ngọc Sang và VTV ngang cơ: cả hai đều xuất thân Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị, một người ở Thủ Đức một người ở Nam Định, sau khi thuyên chuyển sang Không Quân đều được xuất ngoại theo học tại những trường bay xịn nhất của Pháp.
Ông Phạm Ngọc Sang được gửi đi học Khóa 52F1 tại trường bay căn bản Marrakech (Morocco) cùng với các ông Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, tức là trước các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm học Khóa 52F2.
Sau khi solo (được gắn cánh bay) tại Marrakech, các ông Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Hữu Hiền, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, Huỳnh Bá Tính được tuyển đi học lái “phi cơ nhiều động cơ” tại Trường Vận Tải trong CCKQ Avord ở nội địa Pháp.
Theo lời NT Nguyễn Xuân Vinh (cũng dân Vận Tải), ngày ấy chỉ những người tốt nghiệp ưu hạng tại Marrakech mới được tuyển để học lái “phi cơ nhiều động cơ”, tức oanh tạc cơ/vận tải cơ có từ hai động cơ trở lên.
Tại Avord, các khóa sinh được huấn luyện trên vận tải cơ hạng nhẹ MD-312 Flamant; sau khi tốt nghiệp hoặc sẽ được đưa tới trường oanh tạc Blida (ở Algeria) thụ huấn trên phi cơ MD-315 về oanh tạc và tác xạ, hoặc được đưa tới các đơn vị vận tải trang bị phi cơ C-47 Dakota, ngồi ghế phi công phụ ít nhất sáu tháng, sau đó sẽ được tuyển tới trường CIET (viết tắt của tiếng Pháp Centre d’Instruction des Equipages de Transport: Trung tâm Huấn luyện Phi hành đoàn Vận tải) để được thụ huấn trở thành phi công chánh, có khả năng điều khiển phi cơ trong mọi điều kiện thời tiết.

Hai hoa tiêu vận tải đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp trường CIET chính là ông Phạm Ngọc Sang và ông Huỳnh Hữu Hiền.
Trong khi đó ông VTV lại được theo học tại một quân trường danh giá là Trường Võ bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, và cùng với ông Nguyễn Ngọc Loan trở thành hai phi công phản lực đầu tiên của KQVN.
Nguyên sau khi tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định), rồi Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, ba Thiếu úy Nguyễn Ngọc Loan, VTV, Trần Đình Hòe được tuyển đi du học ở Pháp; hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV vào Trường Salon-de-Provence còn ông Trần Đình Hòe vào Trường Vận Tải Avord.
Sau giai đoạn tại Salon-de-Provence hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV được đưa tới Trường Khu Trục tại Meknès (Morocco) để học bay khu trục và phản lực (T-33 của Mỹ, Ouragan của Pháp, Vampire của Anh)..jpg)
[Ngày ấy, sau hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV còn có các ông Phạm Long Sửu, Trần Duy Kỷ, Nguyễn Quang Tri, Nguyễn Đức Khánh cũng được huấn luyện bay phản lực, vì theo dự trù (vào lúc bấy giờ) KQVN sẽ được Hoa Kỳ viện trợ các chiến đấu cơ phản lực như F-80 Shooting Star, F-86 Super Sabre]
Cũng theo lời Đại tá Nguyễn Quang Tri, sau khi ông Nguyễn Ngọc Loan về nước, ông VTV vẫn tiếp tục ở lại Pháp để học thêm các khóa về chiến thuật, tham mưu..., mãi tới cuối năm 1956 đầu năm 1957 mới về nước, và được ghi nhận là khóa sinh “tốn cơm quốc gia nhiều nhất”, nhập ngũ năm 1951 tới cuối năm 1956 mới... thành tài!
* * *
Về nước, ông VTV chỉ phục vụ một thời gian ngắn tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát (tiền thân của Phi Đoàn 514) rồi được đưa về Bộ Tư Lệnh KQ nắm giữ những chức vụ quan trọng.
Đầu năm 1965, khi đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center), ông VTV đã được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất, cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQ, và Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó.
[Việc xuyên huấn B-57 cho các hoa tiêu VN diễn ra tại CCKQ Clark, Phi-luật-tân, bắt đầu vào tháng 5/1964, với ba khóa sinh đầu tiên là Đại úy Nguyễn Ngọc Biện, Đại úy Nguyễn Văn Tường (Tường mực) và Đại úy Nguyễn Văn Long.
Vì vào thời gian này đã có một đơn vị B-57 của KLHK đồn trú tại Biên Hòa cho nên các ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan và VTV đang giữ những chức vụ quan trọng đã được xuyên huấn ngay tại Tân Sơn Nhất]
Chức vụ sau cùng của Đại Tá VTV là Tham Mưu Phó Kế Hoạ̣ch & Chương Trình, BTL/KQ. Trong chức vụ này, cùng với Tham mưu trưởng BTL/KQ là Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, ông đã ra sức "bảo vệ" ưu tiên của KQVN trong chương trình hiện đại hóa và bành trướng của QLVNCH.
Trước năm 1975, tôi chỉ là một sĩ quan cấp úy lại không phục vụ tại BTL/KQ dĩ nhiên làm sao biết được công việc của Đại Tá VTV nếu như sau này ông không sang thăm Úc và bị... kẹt lại!
Nguyên vào cuối tháng 8 năm 2001, Đại tá VTV cùng phu nhân từ Pháp sang Melbourne thăm thân nhân và (dự trù) ngao du một vòng xứ Úc-đại-lợi. Được tin (qua một niên trưởng trước kia cùng định cư tại Pháp với NT VTV), Hội KQ Victoria đã tổ chức đón tiếp tại tư gia một hội viên.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được gặp NT VTV và đã mến phục ông ngay. Ông có dáng dấp thư sinh nho nhã, nói chuyện rất thu hút với một giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng không màu mè kiểu cách như nhiều người Hà Nội trung lưu trước 1954 mà tôi được biết.
Thật khó lòng mà tưởng tượng đây là một cựu hoa tiêu khu trục tài ba, từng lái chiến đấu cơ Ouragan, oanh tạc cơ B-57!
Chính vì con người đáng mến nơi NT VTV mà khoảng cách giữa một vị niên trưởng nhập ngũ năm 1951 và các đàn em KQ – “già” nhất là Khóa 64, cấp bậc cao nhất chỉ là đại úy – đã mau chóng thu hẹp trong bữa cơm tối thân mật đón tiếp hai ông bà.
Đáng nhớ nhất là việc NT không tiếc lời khen ngợi sự hiện diện đông đủ và tài nữ công gia chánh của các bà vợ KQ mà ông gọi là các “nàng dâu Không Quân”. Ông nói:
- Ở đâu cũng vậy, phải có các “nàng dâu Không Quân” tham gia thì Hội KQ ở đó mới đông vui, bền vững.
* * *
Riêng tôi, trong không khí thân mật đầy tình huynh đệ chi binh ấy đã không có được nhiều thời gian riêng tư với vị đại niên trưởng mà tôi có ý định... khai thác.
Nguyên vào khoảng thời gian này, cuối tháng 8/2001, Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu sau khi tham khảo ý kiến các vị niên trưởng ở khắp nơi đã quyết định thực hiện quyển Quân Sử Không Quân VNCH, dự trù ra mắt nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân chủng, 1/7/2005, và đã gửi thư mời gọi các niên trưởng, chiến hữu KQ cung cấp tư liệu, hình ảnh, và bài viết về đơn vị, ngành nghề của mình.
Thư vừa gửi đi thì NT VTV sang thăm Melbourne, quả là cơ hội bằng vàng. Vì thế sau khi không thể khai thác NT trong bữa cơm thân mật đón tiếp ông, tôi dự định xin phép ông cho tới thăm ông bà một buổi để hỏi ông những chuyện ngày xưa liên quan tới KQVN, trước khi hai ông bà trở về Pháp.
Và trời đã... chiều lòng người: vào ngày 11 tháng 9, 2001 xảy ra cuộc khủng bố kinh hoàng ở Hoa Kỳ, ông bà VTV bị kẹt lại ở Melbourne gần một tháng trời vì những thủ tục xuất nhập cảnh khó khăn tại các quốc gia Âu Mỹ.
Trước việc NT VTV bị kẹt lại, Hội KQ Victoria đã quyết định tổ chức buổi kỳ họp định kỳ đệ III tam cá nguyệt sớm hơn thường lệ để vừa... cúng cô hồn vừa giỗ Trung tướng Trần Văn Minh (qua đời ngày 27/8/1997) và mời NT VTV tới chủ trì.
Buổi họp được tổ chức tại tư gia KQ Nguyễn Ngọc Bảo (PĐ245), Hội phó Nội vụ, rộng rãi thoáng mát, có heo quay, có cả... thầy cúng là Nguyễn Ngọc Bảo phu nhân (trong Ban hộ niệm chùa Hoa Nghiêm ở gần đó)...
Vì đường xá xa xôi, phu nhân của NT VTV không thể tháp tùng chồng, cho nên anh em đã cho người tới đón NT hơi sớm để tôi và anh em trong Ban thực hiện Quân Sử Không Quân có nhiều thời gian trò chuyện với ông.
Trước hết, khi được biết dự định của anh em KQ Úc Châu, ông đã ra sức khuyến khích vì theo ông đây là một công việc vô cùng cần thiết mà trước năm 1975 ở BTL/KQ không ai chịu nghĩ tới!
Thực ra, theo lời NT VTV, trước năm 1975, tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Kế Hoạch & Chương Trình BTL/KQ cũng có một Tiểu Ban Quân Sử nhưng không được mọi người quan tâm tới. Có lần Tiểu Ban này thỉnh cầu ngân khoản để mua một cái máy chụp hình thì bị bác với lý do “không có trong bảng cấp số”!
Về tài liệu để biên soạn quyển QSKQ, theo ông hiện nay trên Internet có khá nhiều bài viết công phu của cá nhân hay tập thể cựu quân nhân KQ tuy nhiên lại có những mâu thuẫn, do nguồn tài liệu tham khảo cũng như do trí nhớ của người trong cuộc, cần phải đối chiếu, kiểm chứng, và tham khảo với các bậc “tiền bối” trong quân chủng.
Vì thế, ông rất đồng ý với cách tiến hành công việc của tôi là sau khi hoàn tất mỗi thời kỳ (thành lập, phát triển, bành trướng) sẽ đúc kết những khoảng trống (trong lịch sử quân chủng), những gì chưa rõ ràng, hoặc mâu thuẫn nhau (trong các nguồn tài liệu cũng như bộ nhớ của các niên trưởng) để phổ biến dưới hình thức những Thư tham khảo, hy vọng sẽ nhận được những lời giải đáp, sự bổ túc của các vị niên trưởng và chiến hữu KQ khắp nơi.
Riêng về phần mình, NT VTV cho biết vì về nước trễ (đầu năm 1957) nên ông không nắm vững những diễn tiến trong thời kỳ thành lập quân chủng Không Quân. Ông chỉ nhớ đại khái những gì liên quan tới bản thân ông: sau một thời gian ngắn phục vụ tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát, ông được đưa về BTK/KQ phục vụ tại Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center) lúc đó còn gọi là Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến, do Đại úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này) giữ chức vụ Giám đốc, Trung úy Nguyễn Ngọc Loan làm Phụ tá.
Sau đó, ông Nguyễn Ngọc Loan lên làm Giám đốc thay ông Trần Văn Minh. Chúng tôi không được biết giữa ông Nguyễn Ngọc Loan và ông VTV có đời Giám đốc nào khác hay không, chỉ biết vào đầu năm 1965, khi được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tá Nguyễn Ngọc Loan, Thiếu tá VTV đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân.
Tới năm 1970, trong đà bành trưởng của KQVN, cùng với việc các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, Trung Tâm Hành Quân Không Quân được nâng lên thành Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command).
Đại tá Vũ Văn Ước, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật ngoài Nha Trang được đưa về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng còn Đại tá VTV thì sang BTL/KQ giữ chức vụ Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình.
* Những cuộc đấu võ mồm
Trong khi không nhớ nhiều về thời kỳ thành lập quân chủng, NT VTV lại biết nhiều và biết rất rõ về thời kỳ hiện đại hóa và bành trướng của KQVN, bởi vì ông là người trong cuộc.
Nguyên sau cuộc tổng tấn công của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân 1968, phía Hoa Kỳ bắt đầu chương trình hiện đại hóa và bành trướng QLVNCH, do MACV, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, và các đại diện quân binh chủng phối hợp soạn thảo kế hoạch.
Phái đoàn đại diện Không Quân do Đại tá Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng BTL/KQ cầm đầu, Đại tá VTV làm phó. Vì Đại tá Võ Dinh quá bận rộn với công việc thường nhật cùng với kế hoạch, chương trình bành trướng quân chủng, Đại tá VTV phải thường xuyên đi họp để... đấu lý với các quan lớn bên Bộ TTM và các phái đoàn đại diện quân binh chủng bạn.
Phải đấu lý bởi vì, theo lời kể lại của Đại tá VTV, trong các buổi họp nói trên, quân binh chủng nào cũng tìm cách giành ưu tiên, về ngân khoản viện trợ, về mức độ bành trướng, về cấp số đơn vị... cho quân binh chủng của mình.
Chẳng hạn lúc đầu Lục Quân đã nhất quyết đòi làm chủ trên 700 chiếc trực thăng UH-1 do Lục Quân Hoa Kỳ bàn giao để thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry Brigade) trực thuộc Lục Quân. Các vị đại diện Lục Quân lập luận: trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ thì phải bàn giao cho Lục Quân Việt Nam. Nghe thật có lý!
Nhưng đòi hỏi này đã bị MACV bác bỏ ngay; lý do người Mỹ đưa ra rất đơn giản: không có đủ thì giờ, tiền bạc để huấn luyện, thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ - một cấp đơn vị chưa từng có trong QLVNCH.
Đó là phần hiện đại hóa, sang tới phần bành trướng, khi đại diện KQ trình bày kế hoạch các Không Đoàn Chiến Thuật (Tactical Wing) hiện hữu cùng với các Không Đoàn tân lập sẽ kết hợp thành những Sư Đoàn Không Quân (Air Division), thì các vị bên Bộ TTM phản đối, cho rằng “Sư Đoàn” nghe lớn quá, gọi là “Lữ Đoàn” (Brigade) đủ rồi!
Đại diện của KQ - tức Đại tá VTV - liền phản bác một cách “nhẹ nhàng” như sau: việc tổ chức các cấp đơn vị trong Không Quân VNCH rập khuôn theo tổ chức trong KLHK, mà KLHK thì không hề có cấp đơn vị “Lữ Đoàn Không Quân” (Air Brigade), chỉ có cấp “Sư Đoàn Không Quân” (Air Division), chẳng hạn Sư Đoàn 2 KQ trực thuộc Đệ Thất Không Lực (7th Air Force) đang hoạt động tại Việt Nam.
Cuối cùng, với sự hậu thuẫn của AFAG (Air Force Advisory Group) trong MACV, phe ta đã thắng: Không Quân VN sẽ thành lập các Sư Đoàn Không Quân.
Nhưng không “thắng 100%”. Bởi vì sau đó, Bộ TTM đã “chế” ra một danh xưng chức vụ mới là “Sư đoàn trưởng” để gọi ông sếp lớn của các Sư Đoàn Không Quân.
Nói là “chế” bởi vì trước đó trong ngôn ngữ của người Việt quốc gia không hề có chức vụ “Sư đoàn trưởng”, chỉ có Quân Đội Nhân Dân của cộng sản Bắc Việt mới sử dụng (khi nói chuyện họ thường gọi tắt là “Sư trưởng”).
Dĩ nhiên, đại diện KQ lại phản đối, nhưng vô ích, bởi vì Bộ TTM lập luận quân số của một Sư Đoàn Không Quân không thể sánh với quân số của Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC hay các Sư Đoàn Bộ Binh!
Vì thế khi các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, các ông Tư lệnh Không Đoàn Chiến Thuật 41, 62, 23, 74, 33 đã trở thành các ông Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 Không Quân.
[Mãi tới cuối năm 1972 đầu năm 1973, sau khi Sư Đoàn 6 Không Quân được thành lập tại Pleiku, có lẽ đã nhận ra “Sư đoàn trưởng” là “từ Việt Cộng”, Bộ TTM mới ban hành Sự Vụ Văn Thư đổi danh xưng Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn Không Quân thành Tư lệnh Sư đoàn]
* * *
Sau khi NT VTV và phu nhân trở về Pháp, lâu lâu tôi lại gửi email thăm hỏi và được ông hồi đáp với văn phong dí dỏm cố hữu, có khi còn kể chuyện tới bãi biển ở Nice ngắm đầm khoe tòa thiên nhiên, nhưng sau khi ông bà sang Hoa Kỳ sống thì tôi mất liên lạc.
Khi cách đây khoảng hai tuần, tôi đang viết bài này thì được một KQ ở Hoa Kỳ báo tin NT VTV đã qua đời nhưng không cho biết thêm chi tiết. Sau đó tôi đã tìm cách liên lạc với một số niên trưởng và chiến hữu KQ ở Hoa Kỳ để hỏi thăm tin tức nhưng tới nay vẫn chưa có kết quả.
Theo lời một vị phi đoàn trưởng khu trục tôi quen thân, tin tức cuối cùng về NT VTV là cách đây hơn 2 năm, ông và NT Bồ Đại Kỳ có viết thư thăm hỏi nhau, sau đó thì bặt tin.
(Còn tiếp)
CHÚ THÍCH
(1) Trong bài viết về Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command), Đại tá Vũ Văn Ước, Chỉ huy trưởng, không hề nhắc tới danh xưng “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, mà chỉ viết về Trung Tâm Hành Quân Không Quân, trong đó có các đoạn:
“Thời gian này KLVNCH đã có sẵn một số phi cơ Bearcat, T-28 và số ít A-1H... Vì nhu cầu phối hợp hành quân Việt-Mỹ để yểm trợ các lực lượng diện địa VNCH nên một trung tâm hành quân không quân (TACC) được thành lập tại TSN. Tại đây ban cố vấn Hoa Kỳ và các sĩ quan VN làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ bằng không quân...
“Vị sĩ quan chỉ huy đầu tiên của trung tâm là Đại Úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này), phụ tá là Đại Úy Nguyễn Ngọc Loan và trưởng phòng hành quân là tôi, Vũ Văn Ước.” (ngưng trích)
Trong khi theo một số bài viết của Đại tá Nguyễn Quang Tri, và tiểu sử của Trung tướng Trần Văn Minh, của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, danh xưng đầu tiên của trung tâm này là “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, có từ năm 1956 sau khi người Pháp trao toàn bộ trách nhiệm cho KQVN trong lúc người Mỹ chưa kịp điền vào chỗ trống.
Cũng nên biết trước năm 1956, công việc yểm trợ của không quân cho các lực lượng diện địa đều do các GATAC của Pháp điều động.
GATAC là viết tắt của tiếng Pháp “Groupe Aérien Tactique d'Appui Au Combat”, có nghĩa là “đoàn không yểm chiến thuật”.
Có tất cả ba GATAC: Nord, Centre, Sud, trách nhiệm ba miền Bắc, Trung, Nam.
Sau khi người Pháp rút, các GATAC giải tán, trách nhiệm không yểm được trao cho người Việt, KQVN thành lập “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” để thay thế.
Hai chữ “Không Chiến” ở đây không có nghĩa là “phi cơ đánh nhau trên trời” mà chỉ có nghĩa là “chiến đấu từ trên không”, tức “không yểm” (air support).
Sau khi người Mỹ nhập cuộc, các cố vấn trong KLHK và phía đối tác (KQVN) làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ chiến trường, thì “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” mới được đổi danh xưng thành “Trung Tâm Hành Quân Không Quân” (TACC: Tactical Air Control Center) theo cách gọi trong KLHK.
Thời gian này là đầu năm 1962, khi KLHK bắt đầu bí mật tham chiến qua Chương trình Farm Gate, và Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân là Đại úy Nguyễn Ngọc Loan (theo NT Trần Bá Hợi trong bài Phi Đoàn 2 Khu Trục).
PHỤ LỤC
TƯỞNG NHỚ Lăng CHA CẢ
*KQ Vũ Thượng Văn
Ðã là người Không Quân VNCH thì không ai mà không biết Lăng Cha Cả, ở xã Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình, tỉnh Gia Ðịnh. Tuy nhiên, cũng rất nhiều người Không Quân chỉ đi ngang qua Lăng Cha Cả để ra vào phi trường Tân Sơn Nhất, chưa chắc đã nhìn kỹ cái lăng đó hình dáng ra sao? Lại cũng không biết sự tích cái lăng ấy, và có lẽ cũng không biết lai lịch "Cha Cả" này là ai?
Cả chục ngàn chiến sĩ Không Quân đã mua bánh mì Lăng Cha Cả, đặc biệt là dân Sư Ðoàn 5 KQ và Bộ Tư Lệnh Không Quân. Bánh mì ngon, nóng, rẻ, thường thêm một miếng ớt cay, ăn sáng trên máy bay là "hết xẩy". Nhưng cũng cả chục ngàn KQ ấy khi mua bánh mì thì quay lưng về phía Lăng Cha Cả, cho nên ngày nay có lẽ cũng chẳng nhớ cái lăng ấy ra sao. Ðể giúp các bạn ôn lại hình ảnh xưa, chúng tôi đã sưu tầm được tấm hình độc đáo nầy để các bạn cùng thưởng lãm. Thưởng lãm trong bùi ngùi, vì lăng nầy đã bị chính quyền VC phá bỏ năm 1983, viện lý do là để phát triển đô thị.

Cha Cả tên thật là Pierre Pigneau de Béhaine, sinh ngày 02 tháng 11 năm 1741, tại Origny-en-Thierache (Pháp Quốc). Sau khi học nhiều trường đạo các cấp, tu viện và chủng viện Missions Etrangères (Thừa Sai Ngoại Quốc), ông được thụ phong linh mục (prêtre) năm 1765, và được gửi qua Hà Tiên, Nam Kỳ (Cochinchine) để truyền giáo. Trong thời gian nầy, ông đã soạn thảo một cuốn tự điển lớn bằng tiếng Việt.
Nhưng phần vừa bị chính quyền đàn áp (ông phải đi tù một thời gian), vừa bị hải tặc khủng bố, nên sau đó, ông phải đóng cửa trường (mà ông là Hiệu trưởng), dọn về Pondicherry (Ấn Ðộ). Khi tình hình khả quan hơn, ông trở lại Hà Tiên. Lần trở lại này, năm 1774, ông được trao chức tổng quản giáo hội vùng Nam Kỳ, Căm Bốt và Chàm, với tước vị là Giám Mục d' Adran (Evêque d'Adran, Việt Nam gọi ông là Giám Mục Bá-Ða-Lộc).
Năm 1778, hải tặc Căm Bốt triệt hạ tỉnh đạo Hà Tiên, Ðức Cha Bá-Ða-Lộc phải rút về Sài Gòn, cư ngụ tại tư dinh Hoàng Tử Nguyễn Ánh. Năm 1782, Tây Sơn khởi nghĩa gây ra nhiều vụ tàn sát ở Sài Gòn. Sau khi vua cha bị giết hại, Nguyễn Ánh lên ngôi, cầu viện Xiêm La (Siam), nhưng quân Xiêm bị Tây Sơn đánh đại bại năm 1785. Nguyễn Ánh quay sang cầu viện Pháp qua trung gian của Giám Mục Bá-Ða-Lộc.
Năm 1786, Bá-Ða-Lộc mang ấn tín của vua Nam Kỳ (tức chúa Nguyễn Ánh) cùng Hoàng tử Nguyễn Cảnh rời Hà Tiên qua Pháp. Phái đoàn tới cảng Lorient ngày 26 tháng 02 năm 1787. Ngày 16 tháng 5, vua Louis XVI tiếp phái đoàn tại lâu đài Versailles. Một thỏa ước được ký kết giữa hai vương quốc tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm đó, giữa Bá tước de Montmorin, Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp quốc, và Giám Mục Bá-Ða-Lộc, Ðặc sứ toàn quyền của vua Nam Kỳ.
Đức Bà, Sài Gòn (hình chụp thời Pháp thuộc)
Nhưng bản thỏa ước này sau đó đã không được áp dụng. Bá tước De Conway, Thống Ðốc Pháp tại các lãnh địa thuộc Ấn Ðộ đã từ chối thi hành thỏa ước.
Chờ ở Pondicherry khá lâu, Giám Mục Bá-Ða-Lộc rất nóng ruột. Rốt cuộc, ông từ chối sự giúp đỡ của người Anh (rất bất lợi), tự thành lập một lực lượng cứu viện Nguyễn Ánh, gồm 2 tàu chiến với một nhóm chuyên viên dân sự, quân sự và binh sĩ cùng vũ khí, đạn dược, đổ bộ vào Sài Gòn ngày 14 tháng 7 năm 1789. Lực lượng này tuy không hùng hậu nhưng đã gây phấn khởi cho Nguyễn Ánh. Ông lấy lại thế tấn công đánh Tây Sơn (lúc đó, lực lượng chính của Tây Sơn đang bị quân Tàu cầm chân tại Bắc Kỳ), và từ đó đi đến chỗ thống nhất Nam Bắc và lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Gia Long (1802).
Nhưng trước đó Ðức Cha Bá-Ða-Lộc đã mất vì bạo bệnh tại Quy Nhơn ngày 09 tháng 10 năm 1799. Vì đã có thời làm Thủ tướng cho nhà vua nên tang lễ của Ðức Cha đã được vua Gia Long cho cử hành trọng thể theo nghi lễ quốc táng tại Sài Gòn ngày 16 tháng 12 năm 1799. Mộ của ông được gọi là Lăng Cha Cả.
Paris, tháng 9 năm 2000
KQ Vũ Thượng Văn
- Details
 - Category: Tài Liệu KQ
 - Hits: 549
 
        
        Thiên Ân

- Tưởng nhớ ngày cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương hy sinh - 6 tháng 5 năm 1968 - HQPD trích đăng lại một phần trong bài viết “Trận Mậu Thân 1968 tại CCKQ Tân Sơn Nhứt và cái chết của cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương”, do Thiên Ân viết theo lời kể của Ðại tá Phùng Văn Chiêu.
Vào thời gian nói trên, Đại tá Lưu Kim Cương đang giữ chức Tư lệnh Không Ðoàn 33 Chiến Thuật kiêm Chỉ huy trưởng Yếu Khu Tân Sơn Nhứt.
Yếu Khu này gồm:
1.Yếu điểm TSN, gồm có căn cứ KQ, căn cứ Nhảy dù (trại Hoàng Hoa Thám), khu vực dân sự và Phi cảng TSN.
2. Yếu điểm Hạnh Thông Tây, có Trường Quân Cụ, các trại Cổ Loa (Pháo Binh), Phù Ðổng (Thiết Giáp), Cục Quân Y và Tổng y viện Cộng Hòa.
3. Chi khu Gò Vấp.
Ngoài ra, còn có Tiểu đoàn 53 Ðịa phương quân được đặt dưới quyền sử dụng của Yếu khu để hành quân, và một Pháo đội 105 ly có trang bị hệ thống radar phản pháo, đặt ngay trong phi trường, cũng được đặt dưới sự điều động của Yếu khu.
Bộ chỉ huy Yếu Khu được đặt tại Trung tâm Phòng thủ Hành quân Hỗn hợp Việt – Mỹ (JDOC: Joint Defense Operation Center) trong căn cứ Tân Sơn Nhứt.
Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng Yếu Khu là Trung tá Phùng Văn Chiêu, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, KĐ33CT.
TỔNG CÔNG KÍCH ÐỢT I:
Theo thông lệ, vào mỗi dịp đầu năm âm lịch, VNCH và VC thỏa thuận ngưng bắn 3 ngày để binh sĩ hai bên về ăn Tết với gia đình. Tuy nhiên năm nay (Mậu Thân 1968), có tin VC sẽ tấn công nên tại căn cứ TSN, các đơn vị cho binh sĩ thay phiên nhau đi phép 25% quân số. Bù lại, các lực lượng Hoa Kỳ tình nguyện cấm trại 100% để đắp vào chỗ trống.
Theo tin tình báo, VC đã cho từng toán nhỏ len lỏi vào các khu dân cư xung quanh căn cứ TSN và yếu điểm Hạnh Thông Tây. Cũng theo tin tình báo, lực lượng của chúng tham gia cuộc tổng tấn công gồm có:
• 9 Tiểu đoàn đánh vào Ðô thành Sài Gòn
• 7 Tiểu đoàn đánh vào Căn cứ TSN và Bộ TTM
• 1 Tiểu đoàn đặc công
• 12 Ðại đội do Sư Ðoàn 3 VC tăng phái để yểm trợ tổng quát.
Ðúng 9 giờ sáng mùng một Tết Mậu Thân (31-1-1968), JDOC báo cáo VC đã tấn công cố đô Huế vào đêm 30 rạng mùng một Tết, và đã tràn vào thành phố. Tức thời, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu cho lệnh báo động cấm trại 100%. Tất cả các đơn vị Việt - Mỹ đồn trú đều ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Thiếu tá Chiêu có hỏi Trung tá Cương xem ông có quyết định gì để bổ túc kế hoạch phòng thủ không, Trung tá Cương trả lời ông hoàn toàn đặt tin tưởng vào kế hoạch của Thiếu tá Chiêu, đồng thời cũng nói ông Chiêu ráng lo bảo vệ căn cứ vì bản thân ông còn rất nhiều công việc khác phải lo.
Sau khi được tin có nhiều toán nhỏ của VC lần lượt trà trộn vào các xóm nhà dân trong yếu điểm Hạnh Thông Tây (tuyến Ðông Bắc) và khu vực Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền (dọc Quốc lộ 1) nên ngay trong đêm mùng một Tết, yếu điểm TSN đã tổ chức một cuộc hành quân phối hợp giữa lực lượng phòng vệ do Trung úy Nguyễn Hữu Hạnh chỉ huy, Chuẩn úy Lành phụ tá, cùng với Ty Cảnh sát Quốc gia để xét sổ gia đình. Khoảng 10 giờ đêm, lực lượng hành quân báo cáo đã bắt nhiều người cư ngụ bất hợp pháp, tình nghi là VC. Trong khi đó, TÐ53ÐPQ cũng báo cáo có tin nhiều toán nhỏ VC đang tiến về phía phi trường.
Mười hai giờ đêm, Biệt khu Thủ đô cho biết VC đặt súng cối từ Thủ Thiêm bắn vào dinh Ðộc Lập. Thiếu tá Chiêu đoán có lẽ đó là dấu hiệu khởi đầu cho cuộc tổng tấn công, ông liền ra lệnh cho Trung úy Hạnh rút ngay lực lượng đang hành quân trở về căn cứ và trao những người tình nghi cho Trung đội Cảnh sát Phi Cảng thụ lý. Ðồng thời ông cho 2 Trung đội Phòng vệ cùng tiểu đội AP đế trấn tuyến phòng thủ B. Lực lượng Phòng vệ còn lại để bảo vệ JDOC và tiếp tế đạn dược. Các xe GMC phòng không trang bị đại bác 20 ly và chi đội 3 chiến xa được bố trí dọc theo phía tây vòng đai tăng cường cho TÐ2CV. (1)
Ðể nắm vững tình hình, Yếu khu (Ðại úy Huỳnh Khương An) phái Trung úy Ðặng Lê Bia (SQ tình báo) và phụ tá là Trung sĩ I Vũ Ðức Thọ đi thám thính tại Yếu điểm Hạnh Thông Tây và Chi khu Gò Vấp. Khi xe jeep đi qua Hạnh Thông Tây thì bị B-40 của VC bắn cháy, Trung úy Bia tử thương, Trung sĩ I Thọ bị chúng bắt làm tù binh.
3 giờ sáng, VC bắt đầu tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ và Ðài phát thanh Sài Gòn. Kế tiếp là cổng 2 Bộ TMM (hướng đường Võ Tánh, trục Phú Nhuận - Trung tâm Tiếp Huyết).
3 giờ 20, Ðài kiểm soát báo cáo có nhiều tiếng súng nhỏ từ tuyến Ðông Bắc (Hạnh Thông Tây) bắn vào khu nhiên liệu C-130 của Hoa Kỳ (parking khu Ðông trong căn cứ TSN). Ðồng thời, VC từ phía ngoài cổng 10 (TT Tiếp Huyết) bắn vào bộ chỉ huy của TÐ2CV để yếm trợ cho TÐ2/MTGP của chúng đang phối hợp với TÐ10 Ðặc Công tiến vào bằng ngõ sân golf. Có lẽ ý định của chúng là đánh vào hông phía Tây của Bộ TTM (giáp ranh với cổng 2 của khu MACV annex) nhưng vì không am tường địa thế nên lại tiến thẳng vào khu MACV. Tại đây, VC tấn công rất mãnh liệt nhưng đã bị lực lượng Hoa Kỳ và TÐ2CV phản công tiêu diệt: chúng đã phải để lại trên 80 xác chết và vũ khí đủ loại. Số sống sót chạy qua phía Ðông (hàng rào Bộ TTM) phối hợp với lực lượng đang tấn công cửa sau Bộ TTM (phía đường Võ Di Nguy).
Ở tuyến Tây Nam, khoảng 5 giờ sáng, VC bắt đầu dùng súng đủ loại, kể cả súng cối, bắn vào pháo đài 51 (OF 51), cùng lúc ở phía ngoài dọc theo quốc lộ 1, 4 tiểu đoàn VC giàn trận yểm trợ cho một đơn vị thuộc TÐ10 Ðặc Công phá bãi mìn, và chiếm được pháo đài 51 (do một tiểu đội AP Mỹ trấn giữ).
Lập tức, TÐ2CV gửi một trung đội có trang bị đại bác không giật 75 ly cùng 2 cố vấn Mỹ tới phản công, thêm vào đó còn có 6 đại đội Nhảy Dù từ trại Hoàng Hoa Thám tới tăng cường. Nhưng cũng không thể ngăn chặn được lực lượng quá đông của địch. Kết quả, TÐ 267 của VC đã lọt được vào căn cứ. Trong lúc hai bên cận chiến, VC đã chiếm được khẩu đại bác 75 ly của TÐ2CV rồi bắn lại gây cho một cố vấn Mỹ tử thương. Cùng lúc đó, Không Quân Hoa Kỳ cũng gửi một lực lượng AP tới để tiếp tay tái chiếm pháo đài 51, nhưng VC từ phía trong bắn ra dữ dội, phải cầm cự, chờ tới lúc chiến xa đến bắn phá mới cứu được các thương binh AP đem ra.
Trong lúc hai bên giao tranh ngoài vòng đai thì TÐ267 VC (quân số từ 300 tới 350 ) đã lọt được vào căn cứ, tiến về phía parking C-47 của LÐ33KT, nhưng đã bị lực lượng Phòng vệ chờ sẵn tại tuyến B chặn lại.
Trước đó, Thiếu tá Chiêu đã điều động chi đội 3 chiến xa của lực lượng phòng thủ chạy ra tuyến B để yểm trợ. Tại đây, chiếc của Thiếu tá Chiêu trấn giữ cánh trái, Ðại úy Chi, chi đội trưởng trấn cánh phải, chiếc còn lại trấn ngay giữa. Có chiến xa đến tăng cường, các binh sĩ phòng thủ cảm thấy an tâm hơn.
Khi địch quân tiến vào tầm tác xạ, đại bác 57 ly, đại liên 12 ly 7 trên chiến xa, súng trường, trung liên, M79 của AP dưới đất đồng loạt khai hỏa. Trước hỏa lực mãnh liệt của lực lượng phòng thủ, VC đã phải khựng lại để bố trí, một số lớn chạy vào ẩn núp trong một nghĩa trang cũ ở phía trước của tuyến B.
Lực lượng phòng thủ, kể cả các xạ thủ trên chiến xa, chưa từng đụng địch, hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến trường, nên trước đó Thiếu tá Chiêu rất lo ngại. Tuy nhiên sau đợt phản công đầu tiên khiến VC phải chùn bước, tinh thần binh sĩ đã lên rất cao, chiến đấu gan dạ như lính tác chiến chuyên nghiệp!
Sau này các tù binh VC bị quân ta bắt đã kể lại rằng trước khi tấn công vào Căn cứ TSN, các cấp chỉ huy của họ nói: các anh chỉ cần vào được căn cứ thì Không Quân sẽ buông súng đầu hàng hết vì họ không biết đánh giặc... Vì thế họ không thể ngờ lính KQ lại có khí thế chiến đấu cao như vậy!
Trong lúc giao tranh, chiến xa của Ðại úy Chi bị trúng B40 khiến anh bị thương một chân (sau này tàn tật vĩnh viễn). Khoảng 15 phút sau, xe của Thiếu tá Chiêu cũng bị trúng B40. Sức nổ mạnh đã làm ông và Trung sĩ I Huề, xạ thủ đại liên 12 ly 7, ngã lăn xuống đất. Anh Huề bị thương một chân vì miểng B40, còn ông Chiêu bị miểng trúng mí mắt, máu chảy lênh láng.
(Thiếu tá Chiêu và Ðại úy Chi cùng sử dụng loại máy Motorola cầm tay, mặt sau máy được xi bạc, có lẽ phản chiếu ánh đèn đường nên VC nhận ra vị trí chiến xa, và cũng có thể vì hai người đứng trên xe nên trở thành mục tiêu?!)
Mặc dù hai chiến xa bị đạn nằm bất động nhưng vũ khí trên xe (đại bác 57 ly và đại liên 12 ly 7) còn sử dụng được nên hỏa lực vẫn tiếp tục ngăn chặn không cho địch vượt qua tuyến B để tiến vào các ụ C-47.
Cũng may lúc đó trời đã tờ mờ sáng, Thiếu tá Chiêu liền gọi JDOC xin Phòng Hành quân Chiến cuộc KÐ33CT cho trực thăng võ trang lên xạ kích 3 tiểu đoàn VC đang giàn quân bên ngoài hàng rào (tuyến Quốc lộ 1) với mục đích trấn áp lực lượng của chúng để cho lực lượng phòng thủ bên trong tuyến B yên tâm phản công, đẩy lui TÐ 267 của VC.
Khoảng 8 giờ sáng, đoàn chiến xa của một đơn vị kỵ binh Hoa Kỳ từ Củ Chi đến phối hợp với trực thăng võ trang tiếp tục truy kích 3 tiểu đoàn này và đơn vị yểm trợ là Tiểu đoàn 90 VC đóng tại hãng dệt Vinatexco có trang bị 12 súng cối đủ loại, ngoài ra còn có 7 phi công và 15 chuyên viên cơ khí của Không Quân Bắc Việt. Ý đồ của chúng là sau khi vào được TSN, sẽ chiếm dụng các phi cơ của KQ/VNCH để làm quân dân miền Nam thêm mất tinh thần!
Cuối cùng TÐ267 của VC đã bị lực lượng phòng vệ đẩy lui, phải tháo chạy cùng với đám tàn quân của 3 tiểu đoàn yểm trợ phía bên ngoài.
Trước đó, vào lúc khoảng 7 giờ sáng, Trung tá Lưu Kim Cương cùng toán cận vệ, hai Trung úy Chấn và Lộc thuộc Bộ tư lệnh KÐ, và thành phần còn lại của lực lượng phòng thủ như hai Trung úy Ðức, Ðạt, Chuẩn úy Thạch... ra tới nơi. Theo sau là một xe cứu thương để đưa Thiếu tá Chiêu, Ðại úy Chi, Trung sĩ I Huề vào Bệnh xá của KÐ để cấp cứu.
Trung tá Cương thay thế Thiếu tá Chiêu chỉ huy cuộc phản công. Trong lúc giao tranh, ông bị một viên đạn súng trường của VC xuyên qua bắp đùi nhưng vẫn ở lại tiếp tục chỉ huy. Một điều đáng nói nữa là các sĩ quan như Trung úy Chấn, Lộc, Ðạt và Chuẩn úy Thạch... người thì leo lên xe thiết giáp, kẻ leo lên xe GMC sử dụng các loại vũ khí một cách thành thạo như các chiến sĩ thiện chiến để yểm trợ cho cuộc phản công.
Phần Thiếu tá Chiêu, sau khi rời bệnh xá trở về JDOC thì được lệnh lên trình diện Thiếu tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh KQ, để trình bày các diễn tiến và báo cáo tình hình . Khi thấy Thiếu tá Chiêu bị băng đầu, máu còn dính trên mặt, Thiếu tướng đã ra lệnh giải tán ngay cuộc họp các Tham mưu phó và sĩ quan thuộc BTL để mọi người về lo đối phó với tình hình.
Từ BTL trở về JDOC, Thiếu tá Chiêu nhận thấy cần phải xin lực lượng tiếp viện. Nhưng Biệt khu Thủ đô trả lời rằng hiện không còn lực lượng trừ bị nào khác, vì thế Yếu khu TSN phải tự túc. Cùng lúc đó JDOC được Yếu điểm Hạnh Thông Tây và Chi khu Gò Vấp báo cáo thành Cổ Loa (Pháo Binh) và thành Phù Ðổng (Thiết Giáp) đã bị VC đánh chiếm hết, và xin tiếp viện. Thiếu tá Chiêu lại cầu cứu BKTÐ lần nữa và được trả lời: chờ có chỗ nào áp lực địch giảm, sẽ rút quân để tới giải vây cho các nơi này.
(Mãi cho đến 3, 4 ngày sau, các lực lượng TQLC và Nhảy Dù mới đến đánh giải vây. Trung sĩ I Vũ Ðức Thọ, người bị VC bắt sau khi Trung úy Bia bị tử thương, nay cũng được giải thoát)
Sau khi sắp xếp mọi việc ở JDOC, Thiếu tá Chiêu trở ra mặt trận tuyến B. Vừa ra tới cửa JDOC thì gặp Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Phó Tổng thống, đến. Sau khi được Thiếu tá Chiêu cho biết Yếu khu TSN không xin được tiếp viện, ông không nghĩ ngợi, đã chỉ thị Ðại đội Nhảy Dù đang ứng chiến cho Phó TT ra ngay tuyến B để tăng viện.
 
Khoảng 9 giờ 30 sáng, Thiếu tá Chiêu trở ra tuyến B. Trung tá Lưu Kim Cương vẫn đang chỉ huy phản công. Thiếu tá Chiêu lên một GMC trấn cánh phải vì sợ VC từ phía Tây Nam (Bà Quẹo) đến tiếp viện. Về phần Ðại đội Dù mà Thiếu tướng Kỳ cho mượn, thay vì ra trận thì lại bố trí dọc theo hàng rào phòng thủ của căn cứ Hoàng Hoa Thám (tức cánh trái của mặt trận).
Lúc đó tại tuyến B chỉ còn lực lượng phòng vệ, 3 chiến xa (2 đã bất động) và 3 GMC trang bị phòng không 20 ly, vì Tiểu đội AP của Hoa Kỳ tăng cường đã được lệnh rút đi công tác nơi khác ngay từ lúc đầu, khi xe thiết giáp của Thiếu tá Chiêu và Ðại úy Chi bị trúng B40.
Mãi tới khi lực lượng phòng vệ đã đẩy lui VC gần đến hàng rào phòng thủ tuyến Tây Nam thì Ðại đội Dù mới chạy ra tiếp viện. Sau này, trong buổi tiệc mừng chiến thắng tại CLB Huỳnh Hữu Bạc, khi được Thiếu tá Chiêu hỏi tại sao không ra tiếp viện sớm hơn, vị Ðại đội trưởng Dù cho biết lần đầu tiên thấy lính không quân đánh "bộ chiến" rất khá, lại chiếm ưu thế nên quân Dù không ra vội! Một lý do khác là họ sợ lính KQ chưa đánh giặc bao giờ, khi lâm trận sẽ bắn loạn xạ, có thể trúng nhầm binh sĩ của họ.
(Sau này được biết thêm là trong trận Mậu Thân đợt 1, toàn bộ lực lượng Dù đã bị tung đi các nơi trong mặt trận Ðô thành, chỉ còn lại một số rất nhỏ để bảo vệ căn cứ Hoàng Hoa Thám. Và vì căn cứ này nằm ở cánh trái của mặt trận nên sợ khi VC đánh bọc cánh trái tràn vào căn cứ sẽ mượn đường đánh qua căn cứ KQ, do đó mà quân Dù phải bảo vệ Căn cứ Hoàng Hoa Thám bằng mọi giá).
Khoảng 12 giờ trưa, toán VC cuối cùng của TÐ267 rút ra khỏi căn cứ (tuyến Tây Nam)...
Cuộc tổng công kích đợt 1 của VC vào Sài Gòn chấm dứt ngày 23-2-1968. Ðịch để lại 5520 xác chết.
Tổn thất của chúng trong trận đánh vào Yếu khu TSN như sau:
• 187 xác để lại trong căn cứ, do lực lượng phòng thủ tuyến B bắn chết.
• 82 xác nằm gần hàng rào phía ngoài (khu sân golf), gần cổng số 10 (TT Tiếp Huyết), do lực lượng Hoa Kỳ ở MACV và TÐ2CV thanh toán.
• 693 xác phía bên ngoài căn cứ, do Thiết giáp Hoa Kỳ từ Củ Chi đến và lực lượng phòng vệ từ trong phi trường bắn ra, xa hơn nữa là do TÐ53 ÐPQ tiêu diệt.
Tổng cộng: 962 tên bỏ xác tại trận.
Tổn thất về phía quân bạn như sau:
• Tử thương: 55 (Không Quân HK: 4, Lục Quân HK: 19, KQVN: 5, Lục Quân VN: 27)
• Bị thương: 147 (KQHK: 11, LQHK: 67, KQVN: 12, LQVN: 57).
Thăng thưởng trong Yếu khu:
• Không Quân: Thăng cấp Ðại tá: Trung tá Lưu Kim Cương - Thăng cấp Trung tá: Thiếu tá Phùng Văn Chiêu - Nhiều sĩ quan cấp úy, hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc lực lượng phòng thủ cũng được lên một cấp.
• Lục Quân : Một số sĩ quan chỉ huy yếu điểm, chi khu, TÐ2CV, TÐ53ÐPQ và một số sĩ quan, HSQ, binh sĩ được lên một cấp.
• Ðặc biệt, Ðại tá Cương và Trung tá Chiêu còn được Ðại tướng Tư lệnh Ðệ Thất Không Lực Hoa Kỳ trao tặng huy chương Anh dũng bội tinh Silver Star with V. Mười chiến sĩ KQ khác thuộc LÐ Phòng Thủ TSN được trao tặng Bronze Star with V.
Cuộc phản công đẩy lui VC tại tuyến phòng thủ B trong căn cứ TSN phải được xem là một chiến thắng "vô tiền khoáng hậu" của các chiến sĩ phòng thủ. Ðịch bỏ lại 187 xác chết (chưa kể một số khác được đồng bọn mang đi) trong khi chỉ có 5 chiến sĩ KQVN hy sinh.
Trong số này có những trường hợp đáng được đặc biệt đề cao là:
• Trung sĩ I Huề , xạ thủ đại liên 12 ly 7 trên chiến xa , sau khi bị thương và được đưa vào Bệnh xá băng bó cầm máu, đã tình nguyện trở lại tuyến B để tiếp tục chiến đấu.
• Một Hạ sĩ phòng vệ (không nhớ tên), nhà chỉ có một mẹ góa con côi, đang nghỉ phép ở nhà, khi nghe tin căn cứ TSN bị tấn công đã từ giã mẹ già trở về đơn vị để chiến đấu bên cạnh đồng đội.
Cả hai chiến sĩ KQ nói trên đã anh dũng hy sinh tại tuyến phòng thủ B.
• Trong số những chiến sĩ bị thương có Trung sĩ I Lữ Bá Phương thuộc Ban 2 Yếu khu TSN, đang đi công tác xa cũng chạy về tham chiến. Tinh thần của anh cũng rất đáng được đề cao.
Ba chiến sĩ nói trên, cùng với những chiến sĩ KQ khác đã hy sinh hoặc bị thương trong trận này, xứng đáng được gọi là những anh hùng như bất cứ anh hùng phi hành nào trong quân chủng, nhưng trong suốt 35 năm qua lại chưa một lần được nhắc tên. Thật đáng buồn!
TỔNG CÔNG KÍCH ÐỢT II:
Mặc dù VC bị tổn thất nặng nề trong cuộc tổng công kích đợt 1, tới trung tuần tháng 4-1968 đã có tin cho biết chúng sẽ mở cuộc tấn công đợt 2. Tin tình báo còn cho biết Căn cứ TSN vẫn là một trong những mục tiêu hàng đầu của chúng.
Theo sự ước đoán của Trung tá Phùng Văn Chiêu, nếu tấn công căn cứ lần nữa, VC sẽ không nhắm mũi dùi vào tuyến Tây Nam (pháo đài OF51) như lần trước, mà sẽ đánh vào các tuyến có nhiều dân cư sống bên ngoài hàng rào, như các tuyến Ðông Bắc (Hạnh Thông Tây), Ðông Nam (Ngã tư Bảy Hiền).
Mặt Ðông Bắc, khu C-130 có kho nhiên liệu, do các lực lượng Hoa Kỳ và TÐ2CV trấn giữ, được tăng cường một đơn vị quân khuyển hàng đêm đi tuần dọc theo đường đai phòng thủ.
Mặt Tây Nam tuy trống trải nhưng được quân ta tăng cường mạnh mẽ, và có một đơn vị Hoa Kỳ phối hợp với TÐ2CV giàn quân dọc đường đai nên VC cũng khó mà đánh vào tuyến này.
Như vậy, nếu chúng muốn đánh vào căn cứ theo hướng Ðông Nam thì sẽ lợi dụng khoảng từ Ngã Tư Bảy Hiền tới trại Hoàng Hoa Thám. Do linh tính, Trung tá Chiêu đã đoán trước ý định của VC. Vì thế, chiều nào ông cũng điều động quân của TÐ2CV và 3 chiến xa chạy qua chạy lại trên tuyến Tây Nam, nhưng sau khi trời tối thì cho các GMC trang bị đại bác 20 ly ra thay thế, và rút thiết giáp vào trấn phía sau khu nhà dân ở Ngã Tư Bảy Hiền cùng với 2 Trung đội Phòng vệ. Trên nóc trường Quốc Gia Nghĩa Tử gần đó, một bán tiểu đội Quân Báo trang bị trung liên do Thiếu tá Huỳnh Khương An điều động.
Sáng ngày 6-5-1968, khi trời còn tối, mọi người đang yên giấc thì có nhiều toán VC tập họp tại nghĩa trang Pháp thành một lực lượng khoảng một Ðại đội nhẹ. Bất ngờ, trung liên trên nóc trường QGNT, chiến xa và lực lượng phía bên trong rào đồng loạt nhả đạn, khiến chúng hoảng hốt, tiến thối lưỡng nan, đành nằm chịu trận, không dám đứng dậy hay chạy đi đâu cả. Tiếp theo, trực thăng võ trang do Phòng Hành quân Chiến cuộc KÐ33CT gửi đến tiếp ứng. Bị bốn mặt giáp công, toàn bộ lực lượng VC đã bị tiêu diệt.
Trước đó, khoảng 7 giờ 30 sáng, Ðại tá Lưu Kim Cương đến JDOC thăm hỏi tình hình và hỏi Trung tá Chiêu xem ông có thể ra mặt trận được không. Trung tá Chiêu trả lời mục tiêu thanh toán gần xong rồi, nếu ông có ra thì cũng chỉ quan sát thôi, để cho lực lượng phòng thủ và thiết giáp giải quyết mục tiêu cũng đủ rồi. Vì thế Ðại tá Cương chỉ ra đứng trên đài quan sát gần cổng Phi Long đặt ống nhòm quan sát.
Nhưng khi Trung úy Hạnh, chỉ huy lực Phòng vệ được lệnh JDOC cho xung phong thu dọn chiến trường, khi chạy ngang đài quan sát thấy Ðại tá Cương, một binh sĩ Phòng vệ đã la lớn 'Xung phong Ðại tá!'. Anh ta lập lại đến đôi ba lần. Tức thời Ðại tá Cương leo xuống đất. Rồi không biết vì muốn hòa mình, muốn làm gương cho binh sĩ, hoặc thấy trận chiến đã gần chấm dứt, ông hiên ngang chạy trước tiên, tay cầm súng lục bắn về phía nghĩa trang!
Không may, có một tên VC thủ súng B40 vẫn còn sống. Y liền bắn một trái B40 trúng tấm mộ bia ngay bên cạnh Ðại tá Cương, sức nổ và miểng đạn đã chặt đứt một cánh tay của ông và gây thêm nhiều vết thương nặng khác, khiến ông tắt thở tại chỗ. Một phóng viên truyền hình Pháp chạy theo Ðại tá Cương cũng bị tử thương ngay bên cạnh ông.
Trận đánh này, lực lượng ta chiến thắng một cách dễ dàng nhưng Ðại tá Tư Lệnh KÐ33CT lại hy sinh. Toàn thể quân nhân các cấp trong Yếu khu TSN vô cùng đau lòng, thương tiếc vị Chỉ huy trưởng anh hùng. Cố Ðại tá Lưu Kim Cương được vinh thăng Chuẩn tướng.

Ðến nay dù đã 35 năm trôi qua, mỗi khi nghe lại bản Cho một người nằm xuống, mọi người vẫn còn bùi ngùi thương tiếc...
Sau khi Chuẩn tướng Lưu Kim Cương qua đời, Trung tá Phùng Văn Chiêu trao quyền Liên đoàn trưởng 33 Phòng thủ cho Trung tá Lê Văn Triệu, còn ông thay thế Chuẩn tướng Cương trong 2 chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu TSN và Khu quân sự TSN.
Ðầu năm 1970, khi Trung tá Chiêu được lệnh đi nhận chức Không đoàn trưởng Yểm cứ Biên Hòa, hai chức vụ nói trên được trao lại cho Ðại tá Phan Phụng Tiên.
NHỮNG UẨN KHÚC...
Theo lời Ðại tá Phùng Văn Chiêu, sau này trong dư luận Không Quân không hiểu có người cố tình xuyên tạc hay vì một nguyên nhân nào khác, đã chỉ trích rằng: tại sao ngày đó Trung tá Chiêu không ra trận mà lại để cho Ðại tá Cương ra để rồi bị tử thương!
Ðại tá Chiêu cho biết ông rất buồn trước dư luận này, nhưng trong suốt 35 năm qua, ông im lặng để mọi người muốn hiểu sao cũng được. Ðiều quan trọng đối với ông, chỉ cần vong hồn cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương biết là đủ rồi…
Ngoài ra còn một việc mà cho tới nay, Ðại tá Chiêu vẫn thắc mắc và không thể quên, là trong cuộc tấn công đợt 1 của VC, ngoài các sĩ quan có trách nhiệm phòng thủ, có một sĩ quan bên Liên Ðoàn 33 Kỹ Thuật là Thiếu tá Nguyễn Dương, trong suốt thời gian trận chiến diễn ra ở TSN (1 tuần lễ) đã luôn luôn hiện diện, hướng dẫn cho binh sĩ dưới quyền kỹ thuật tác chiến, phân công, đôn đốc trong việc bảo vệ các ụ C-47 cũng như đáp ứng nhu cầu hành quân cấp bách.
Nếu ngày đó TÐ267 của VC vượt qua được tuyến phòng thủ B, thì chỉ còn 50m nữa là tới các ụ C-47 và khu kỹ thuật, chắc chắn Thiếu tá Nguyễn Dương và anh em binh sĩ kỹ thuật sẽ bị chúng tiêu diệt. Sau đó, Ðại tá Lưu Kim Cương đã đề nghị thăng cấp Trung tá đặc cách mặt trận cho Thiếu tá Nguyễn Dương. Nhưng rồi trong số những vị Thiếu tá tiến ra trước mặt Thiếu tướng Tư lệnh KQ Trần Văn Minh để được gắn cấp bậc Trung tá nhờ công trạng trong Tết Mậu Thân đã không hề có Thiếu tá Nguyễn Dương mà có vài sĩ quan khác không thuộc KÐ33CT, cũng không có công trạng, nhưng lại được thăng cấp. (2)
Chuyện xảy ra đã 35 năm, Ðại tá Phùng Văn Chiêu không bao giờ muốn nhắc lại, nhưng vì có lời yêu cầu của Ban Thực Hiện Quân Sử Không Quân , cũng là Ban Biên Tập đặc san Lý Tưởng - Úc Châu, ông mới kể lại đầy đủ - chuyện vui cũng như chuyện buồn.
Dĩ nhiên, sau 35 năm, ký ức của một người đã ở vào tuổi 'cổ lai hi' có thể không được đầy đủ và chính xác 100%. Vì thế, người viết xin chuyển đạt lời tâm tình của Ðại tá: nếu có những thiếu sót, hoặc vô tình làm buồn lòng một vài cá nhân trong quân chủng, ông chân thành cầu mong một sự thông cảm, và miễn chấp.
Thiên Ân
Melbourne, Australia, tháng 5/2003
CHÚ THÍCH
(1) Trong ngôn ngữ của Không Quân Hoa Kỳ, vào thời gian chiến tranh Việt Nam, AP là viết tắt của Air Police, thuộc lực lượng phòng thủ căn cứ, được trang bị hùng hậu, sử dụng xe bọc thép V-100 Commando. Hiện nay, hai chữ AP đã được thay thế bằng SP (Security Police).
(2) Thiếu tá Nguyễn Dương về sau đi du học lấy bằng Tiến Sĩ Hàng Không. Năm 1974, với cấp bậc Đại tá, ông giữ chức vụ Tham mưu trưởng BCH/KT&TV/KQ một thời gian ngắn trước khi được biệt phái sang dân sự, đại diện chính phủ VNCH trong Kế Hoạch Colombo, chương trình dò tìm tài nguyên bằng vệ tinh.
Sau năm 1975, ông giảng dạy trên đại học ở Pháp rồi sang Hoa Kỳ tham gia chương trình nghiên cứu chế tạo phi cơ không người lái (UAV: unmanned aerial vehicle), thường gọi ngắn gọn là “drone”.
- Details
 - Category: Tài Liệu KQ
 - Hits: 1151
 
        
        BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
Nguyễn Xuân Vinh - vị cựu Tư lệnh đáng mến
Trước năm 1975, tôi chỉ nể phục chứ không phải một người ái mộ ông Nguyễn Xuân Vinh.
Nể phục bởi vì vào năm 1965, ông là người đầu tiên được cấp bằng Tiến sĩ Khoa học Không gian tại Đại học Colorado; tới năm 1972 được phong chức Giáo sư tại Đại học Michigan, đồng thời lấy bằng Tiếng sĩ Quốc gia Toán học tại Đại học Sorbonne danh tiếng của Pháp quốc.
Không ái mộ bởi, thứ nhất, tôi rất ghét môn toán, thứ hai, tôi không thích đọc truyện tình cảm lãng mạn, cho nên dù cuốn Đời Phi Công của ông có đoạt Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961, được tái bản tới 4 lần, tôi cũng chỉ đọc qua một lần cho biết nội dung.
Sau khi gia nhập Không Quân, tôi còn cố tình bỏ lỡ cơ hội nghe ông nói chuyện tại CCKQ Biên Hòa vào năm 1973.
Ngày ấy, sau khi Hiệp Định Ba-lê được ký kết vào đầu năm 1973, chính phủ VNCH đã xúc tiến việc mời các nhà khoa bảng VN đang làm việc tại ngoại quốc, kêu gọi sinh viên đang du học về thăm miền Nam với hy vọng trong tương lại họ sẽ về góp phần vào sự phát triển của đất nước thời hậu chiến.
Tôi là một trong những sĩ quan có nhiệm vụ đón tiếp, hướng dẫn các phái đoàn sinh viên nói trên khi họ tới thăm các cơ sở của BCH/KT&TV/KQ.
Còn buổi nói chuyện của vị Giáo sư Tiến sĩ cựu Tư lệnh Không Quân với các sĩ quan tại CCKQ Biên Hòa thì do Khối CTCT của SĐ3KQ tổ chức. Các ông đơn vị trưởng tại BCH/KT&TV/KQ được chỉ thị của Đại tá Từ Văn Bê sắp xếp công việc sao cho càng nhiều sĩ quan cấp tá tới tham dự càng tốt. Riêng sĩ quan Khối CTCT thì từ cấp trung úy trở lên phải đi tham dự theo lệnh ông Trưởng Khối, nhưng tới nơi thấy quá đông người tôi làm bộ lạng tới lạng lui ngoài cửa cho sếp thấy mặt rồi chuồn mất!
Mấy ngày sau, khi tôi có việc phải lên văn phòng ông Từ Văn Bê, ông hỏi tôi nghĩ gì về buổi nói chuyện của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Dĩ nhiên tôi không dám xạo vì biết chắc chắn sẽ bị lộ tẩy nên đành thú thật mình không tham dự vì... quá bận việc!
Ông Bê chỉ biết lắc đầu thở dài!
* * *
Sau khi định cư tại hải ngoại tôi mới biết ngoài chức Giáo sư, học vị Tiến sĩ, ông Nguyễn Xuân Vinh còn là một nhà khoa học nổi tiếng quốc tế. Vì thế vào đầu năm 1998, khi Tổng Hội Sinh Việt Nam tại Úc thông báo ông sẽ sang Melbourne tham dự một cuộc hội thảo khoa học quốc tế theo lời mời của người Úc, Hội Ái Hữu Không Quân Victoria (dưới thời anh Vũ Văn Bảo làm Hội trưởng) đã đưa ra một chương trình đón tiếp linh đình của Hội Không Quân Victoria!

Lúc đó Tổng Hội Sinh Viên đã có sẵn một lịch trình đón tiếp Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tổ chức các buổi nói chuyện, gặp gỡ sinh viên VN tại ba thành phố lớn Melbourne (Victoria), Sydney (NSW) và Brisbane (QLD), tuy nhiên do “áp lực” của các đàn anh Không Quân (và tình thân giữa tôi với anh Chủ tịch vốn là con trai một người bạn), Hội Không Quân Victoria đã được “độc quyền” vị cựu Tư lệnh KQ trong hai ngày: ngày đầu tiên sau khi ông tới Melbourne và ngày cuối cùng trước ông trở về Hoa Kỳ.
Một sự trùng hợp tốt đẹp là ngày đầu tiên ấy lại rơi vào khoảng thời gian tổ chức buổi họp định kỳ mỗi tam cá nguyệt của Hội Không Quân Victoria tại trụ sở Hội CQN tiểu bang, cho nên chỉ cần biến buổi họp nội bộ thành buổi đón tiếp vị Giáo sư Tiến sĩ, cựu Tư lệnh KQ (cùng phu nhân), mời Ban chấp hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Ban chấp hành Hội CQN tiểu bang và đồng hương tới tham dự, là tốt đẹp cho cả ba phía Không Quân, CQN và Cộng Đồng.
Chỉ có điều đáng tiếc là mặc dù trụ sở Hội CQN là nguyên tầng lầu của một thương xá do một vị mạnh thường quân cho mướn với giá tượng trưng, đã không đủ chỗ đứng, ngồi cho hàng trăm đồng hương cho nên nhiều người đã phải đứng ở ngoài hành lang và cầu thang suốt gần hai tiếng đồng để dự thính buổi đón tiếp và nói chuyện của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh.
Theo đúng nguyên tắc cũng như phép lịch sự, sau khi ông Nguyễn Xuân Vinh trở thành Giáo sư tại Đại học Michigan vào năm 1972, khi thưa gửi phải gọi ông là “Giáo sư”, cho nên khi giới thiệu vị khách với cử tọa, lẽ dĩ nhiên tôi phải sử dụng chữ “Giáo sư”, nhưng tới khi thưa gửi trực tiếp, vì đây là một buổi nói chuyện do Hội Không Quân đứng ra tổ chức, tôi đã gọi ông là “Niên trưởng”:
- Kính thưa Niên trưởng cựu Tư Lệnh Không Quân...
Không ngờ lại... có điểm! Khi bước lên bục, câu nói đầu tiên của ông là:
- Tôi rất xúc động khi sau bao năm rời quân chủng Không Quân, nay vẫn được anh em gọi là “Niên trưởng”. Tôi rất quý hai chữ này!
Tôi tin lời ông bởi vì sau đó ông đã dành phần lớn thời gian để kể chuyện vui buồn quân trường, quân ngũ, những diễn tiến đáng nhớ trong bốn năm giữ chức Tư Lệnh Không Quân, hơn là sự thành đạt, những thành tích của ông sau khi giải ngũ.
Tôi chưa từng nghe ông Nguyễn Xuân Vinh thuyết trình, nhưng nếu chỉ nói về tâm tình – như buổi gặp gỡ đồng hương ở Melbourne hôm đó – phải công nhận ông có sức thu hút cử tọa mãnh liệt, không phải với những câu chuyện ly kỳ mà đôi khi chỉ là những việc bình thường trong cuộc sống của một phi công, một vị tư lệnh.
Vì thế hơn một tiếng đồng hồ qua đi như... cơn gió thoảng. Trước sự nuối tiếc của mọi người, tôi đã phải “an ủi” bằng cách thông báo buổi nói chuyện chính thức của “Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh” do Tổng Hội Sinh Viên VN tổ chức vào ngày hôm sau tại một hội trường rộng lớn, nhưng ra vẻ cử tọa cũng không mấy hào hứng vì đa số là cựu quân nhân và đồng hương lớn tuổi, họ thích nghe “Đại tá Nguyễn Xuân Vinh” hơn “Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh"!
Trong phần tiệc trà tiếp theo đó, tuy đã được tôi (MC) nhấn mạnh chỉ dành cho gia đình Không Quân, vẫn có một số vị CQN lớn tuổi nán lại, dứt khoát không phải vì miếng ăn mà chỉ để được trò chuyện với một nhân vật nổi tiếng xuất thân QLVNCH, vì thế tôi cũng không có được nhiều thời gian riêng tư với vị cựu Tư Lệnh.
Sau khi biết tôi là người thân cận của Chuẩn tướng Từ Văn Bê trước năm 1975 và hiện phụ trách bài vở cho đặc san LÝ TƯỞNG Úc Châu, ông lấy cuốn sổ nhỏ trong túi ra cho tôi số điện thoại và địa chỉ của ông Bê ở Oklahoma và hứa sau khi đi một vòng các tiểu bang, trở lại Melbourne ông sẽ trao cho tôi một “bản sao” nhật ký của ông trong chuyến thăm Úc để tôi tùy nghi sử dụng.
Ông cũng không quên ca tụng ông Từ Văn Bê (mà ông luôn luôn gọi là “Chuẩn tướng”), một đàn em của ông tại Trường Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence ngày xưa, và cho tôi biết ông sếp cũ của tôi từng giữ chức Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt ở tiểu bang Oklahoma và là người sáng lập Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH tại đây.

Sau mấy tuần thăm viếng ba thành phố lớn của Úc, thuyết trình cho giới trẻ, gặp gỡ anh em CQN, được các Hội Không Quân tiểu bang tiếp đón, hướng dẫn đi du ngoạn, ông Nguyễn Xuân Vinh – mà từ đoạn này tôi gọi là “niên trưởng” theo ý ông – và phu nhân trở lại Melbourne.
Tại thành phố phương nam cổ kính nhất nước Úc này, NT và phu nhân đã được anh em KQ hướng dẫn đi thăm các danh lam thắng cảnh trong hai ngày, và dự bữa cơm thân mật trước khi trở về Hoa Kỳ.
Bữa cơm tối được tổ chức tại tư gia cựu Hội trưởng Khưu Văn Nghĩa (ngôi nhà khang trang rộng rãi nhất Hội tính tới lúc ấy) với sự tham dự của hầu hết hội viên.

Bầu không khí thật thân mật, ấm cúng. Thân mật tới mức Ban chấp hành Hội đã tự động sắp xếp NT Nguyễn Xuân Vinh ngồi chung bàn VIP với anh em và một số hội viên lớn tuổi, còn phu nhân thì ngồi chung bàn với đám quần hồng.
Dù NT và phu nhân không nói ra nhưng ngay sau đó chúng tôi đã nhận thấy “something wrong”. Tuy nhiên tới khi được NT giải thích vì tình hình sức khỏe yếu kém của phu nhân, lúc nào ông cũng phải kề cận, nhất là khi ăn uống, anh em liền mời phu nhân lên ngồi chung bàn với NT nhưng ông đã xua tay, nửa đùa nửa thật:
- Không sao, tôi tin tưởng giao nhà tôi cho các chị, nhưng có gì các chị phải chịu trách nhiệm đấy nhé!
Trong suốt bữa ăn, tôi để ý thấy mỗi lần bà chủ nhà (chị Nghĩa) đi ngang qua, ông lại hỏi “Nhà tôi có ăn được... (món này món nọ) không?”, cho thấy vị cựu Tư lệnh Không Quân luôn quan tâm tới người bạn đời của mình.
Vì thế, lợi dụng bầu không khí huynh đệ chi binh hiếm hoi tối hôm ấy, tôi đã hỏi NT một câu khá hắc búa:
- Thưa NT, nhân vật Phượng trong cuốn Đời Phi Công chính là phu nhân hay một người đẹp nào khác, hay chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng?
Ông nhìn tôi mỉm cười, trả lời... nước đôi:
- Cái này thì tôi không thể tiết lộ. Nhưng các anh cũng nên biết trong thơ văn, những hình ảnh đẹp nhất... thường không có thật!
Chịu thua ông phi công kiêm nhà văn! Phu nhân có nghe được thì cũng huề tiền.
* * *
Sau bữa cơm và trước chương trình karaoke, anh Hội trưởng Vũ Băn Bảo đã thay mặt Hội tặng vị cựu Tư lệnh Không Quân một áo jacket đồng phục của Hội KQ Victoria – veston xanh đậm có thêu huy hiệu “Tổ Quốc – Không Gian” trên túi bên trái; ông thử liền tại chỗ, thấy vừa vặn ông mặc luôn (sau khi về Hoa Kỳ, ông luôn luôn mặc cái jacket này khi tham dự các sinh hoạt của KQ, của CQN hay Cộng Đồng).
Tới chương trình karaoke, Nguyễn Xuân Vinh phu nhân tỏ ra rất háo hức, không phải để hát mà để nghe người khác hát; bà không dấu diếm mình thích nhất giọng hát Vũ Khanh.
Tiết lộ này khiến tôi khá ngạc nhiên vì (xin lỗi những người ái mộ Vũ Khanh) với tôi, cách hát của Vũ Khanh thích hợp với nhạc... “sến” hơn. Nguyễn Xuân Vinh phu nhân xuất thân từ một danh gia vọng tộc ngoài Bắc, thân phụ làm Đốc phủ sứ thì bà phải nghe Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú, Trần Thái Hòa, Nguyên Khang... chứ!
Cũng xin viết thêm, tôi biết được gia thế của Nguyễn Xuân Vinh phu nhân là qua một người bạn học cùng lớp với bà ở Hà Nội trước kia.
Người bạn học đó là “chị Phương”, người bạn đời của “bố Tuynh”, tên thân mật trước năm 1975 anh em CTCT Không Quân chúng tôi dành cho Nhạc trưởng Vũ Văn Tuynh (1923-2007), cựu Thiếu tá Trưởng Ban Quân Nhạc BTL/KQ.

Ông và tôi cùng quê Nam Định, hai huyện Ninh Cường và Giao Thủy chỉ cách nhau một con sông cho nên tôi và ông đều “nghi” rằng chúng tôi có họ hàng gần xa với nhau: họ ngoại của tôi là Vũ Ngọc, cùng với Vũ Văn của ông và Vũ Đức là ba chi tộc họ Vũ ở Nam Định.
Từ ngày quen biết “bố Tuynh” tôi khám phá ra một điều rất đáng yêu là trong thư từ với những người thân quen - ngang cơ hoặc dưới cơ - ông luôn luôn ký tên “Tuynh-Phương”; hiểu ý, chúng tôi gọi phu nhân là “chị Phương” thì cả hai ông bà vui thích ra mặt.
Định cư ở Sydney (tiểu bang New South Wales) mỗi lần ông bà xuống thăm con gái ở Melbourne (tiểu bang Victoria) tôi đều mời tới nhà tôi ăn cơm tối để nói chuyện ngày xưa và uống vang đỏ.
Đáp lại, lần nào ông cũng dúi cho tôi một bịch nylon đựng thuốc ống vố “No. 79” thơm lừng của đế quốc Mỹ do con ông từ xứ Cờ Huê gửi sang.
Sau khi ông phải vào bệnh viện vì các biến chứng của bệnh tiểu đường, toàn bộ “No. 79” tồn kho của ông đã được cô con gái đưa về Melbourne biếu tôi!
* * *
Trở lại với chương trình karaoke sau bữa cơm thân mật tiễn NT Nguyễn Xuân Vinh và phu nhân, vì không có ca sĩ đực rựa nào biết một ca khúc của Vũ Khanh để hát tặng phu nhân, tôi đã bí mật dàn xếp với “đệ nhất nữ danh ca” của Hội là chị Xuân, hát bản “Em biết anh đi chẳng trở về” (Anh Bằng phổ thơ Thái Can, một bản tủ của Vũ Khanh) vào cuối chương trình để tiễn vị cựu Tư Lệnh Không Quân.
Không ngờ màn dàn dựng của tôi đã gây xúc động thật sự, nơi anh chị em KQ hiện diện cũng như chính NT Nguyễn Xuân Vinh mà tôi có thể nhận ra qua nét mặt nghiêm và buồn của ông.
“Ông thần” Lý Tống
Vị khách Không Quân thứ hai sang thăm Úc trong năm 1998 là cựu Trung úy Lý Tống.
Với không ít cựu quân nhân Không Quân nói riêng, người Việt quốc gia tại hải ngoại nói chung, Lý Tống là một người hùng, tuy nhiên trong hồi ký này tôi chỉ kể những gì có thật ngoài đời về một “chiến hữu Không Quân” là cựu Trung úy phi công A-37 Lý Tống (Lê Văn Tống) và những gì xảy ra trong hai chuyến thăm Úc của anh cũng như tại tòa án Thái Lan, có dính dáng tới cá nhân tôi và Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu.
Theo ngôn ngữ bình dân của người Việt thì khi ta gọi ai là “ông thần” là có ý “nể” và “ngán” người đó.
Lý Tống (LT) đáng nể vì anh cam đảm hơn người, dám làm những việc mà người khác không dám làm, và đáng “ngán” bởi anh ngang tàng không sợ một ai. Chính vì thế mà gia nhập Không Quân từ tháng 1/1965, tới tháng 4/1975 LT vẫn còn mang lon trung úy, trong khi đa số SVSQ xuất thân các khóa 65 đã mang lon thiếu tá, chậm nhất cũng phải đại úy.
Tiểu sử của LT trên Wikipedia viết:
Từ tháng 1/1965 đến 12/1965, Lý Tống học tại Trung tâm huấn luyện không lực Nha Trang. Lý Tống học khóa 65A do đại úy Truyền làm Đoàn trưởng. Đang học tại Trung tâm huấn luyện không lực Nha Trang thì Lý Tống nhận được giấy báo đi du học tại Hoa Kỳ.
Tháng 1/1970, Lý Tống được phân công về phi đoàn 122, sư đoàn 4 không quân Cần Thơ. (ngưng trích)
Đọc đoạn trên nếu chú ý chúng ta sẽ thấy khoảng thời gian từ năm 1965 tới tháng 1/1970 cần đặt một dấu hỏi: LT học bay dở lắm hay sao mà hơn 4 năm trời mới lấy được cái bằng hoa tiêu quan sát?!
Câu hỏi trên, những ai quen biết LT hoặc được nghe bạn bè của LT kể đã có câu trả lời, ở đây tôi chỉ xin hết sức ngắn gọn:
Sang Mỹ học bay, LT hành hung (khá nặng tay) một đàn anh nổi tiếng hắc ám và bị đuổi về nước, cho ra bộ binh. Nhưng LT chỉ mê làm phi công, anh gửi hết lá thư này tới lá thư khác cho Trung tướng Tư lệnh Không Quân Trần Văn Minh xin được trở lại Không Quân để học bay.
Sự kiên trì của LT cuối cùng đã khiến ông Minh “đù” xiêu lòng, chấp thuận cho anh về lại KQ, học bay phi cơ quan sát, về phục vụ tại Phi Đoàn Quan Sát 122 ở Bình Thủy, Cần Thơ; rồi xuyên huấn phản lực cơ A-37, phục vụ tại Phi Đoàn 548 “Ó Đen”, Không Đoàn 92CT, CC20CT (Phan Rang) cho tới ngày tan hàng.
Tại Phan Rang, chẳng hiểu do đâu LT được đặc trách Câu lạc bộ Sĩ quan trong căn cứ. Chỉ huy trưởng căn cứ là Đại tá Đỗ Trang Phúc, một người rất réc-lô, trước kia làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 92 KQ (Pleiku) đã được tôi nhắc tới trong Phần 1 của hồi ký này.
Sự ngang tàng (tạm gọi như thế) của LT tại Phan Rang đã được tác giả Vĩnh Hiếu (PD 215 Thần Tượng) kể lại trong tập bút ký “Trên Vòm Trời Lửa Đạn” như sau:
...Trong giai đoạn này, Đại tá Đỗ Trang Phúc đang làm căn cứ trưởng. Ông là một vị Đại tá nghiêm khắc, kỷ luật và có thể nói là bảo thủ. Nhảy đầm là một điều cấm kỵ, ngay cho cả những phi công hào hoa, lả lướt. Tuy nhiên việc cấm nhảy đầm đã được hủy bỏ vì một sự kiện đã xãy ra sau đây.
Trong một buổi dạ vũ tổ chức cho Không đoàn, Lý Tống đã mướn một cô gái vũ “sexy” được trả tiền hậu hĩ để đến trước mặt Đại tá chủ tọa biểu diễn. Theo sự dàn xếp, cô gái này phải đứng ngay trước mặt bàn “VIP” nhảy múa, không được đi đâu khác.
Tối hôm đó, trong màn vũ “sexy”, thấy cô gái này múa trước mặt quá lâu trước mặt mình, Đại tá Phúc đỏ mặt vì ngượng với các bà, bèn kêu Lý Tống đến và ghé tai anh, bảo: “Chú mày bảo cô ta đi chỗ khác ngay!” Anh Lý Tống đã nhanh nhẩu trả lời: “Đại tá hoặc tiếp tục ngồi xem hoặc ra về chứ tôi không có quyền xen vào nghiệp vụ của cổ, nhất là do cô tự ‘ái mộ’ Đại tá , chứ tôi không dính dáng gì cả!”. Đại tá Phúc hỏi gằn: “Vậy chú mày muốn tao làm gì?” Lý Tống bèn trả lời: “Anh em chỉ muốn nhảy đầm như thường lệ. Đâu có Căn cứ Không Quân nào cấm nhảy đầm đâu?” Vị chỉ huy trưởng bực mình nói:“Rồi!.. Tao cho phép nhảy đầm. Xong chưa!?” Thấy Đại tá Phúc xuống giọng, anh phi công ngang bướng này lợi dụng tình thế đòi điều kiện: “Xin Đại tá phải đi một đường bay bướm trước anh em mới dám ra nhảy chứ!?” Đại tá Phúc ở vào thế chẳng đặng đừng miệng càu nhàu: “Cả đời tao chỉ có hai ông Tướng Kỳ và Tướng Minh mới bắt được tao nhảy đầm thôi. Mầy là người thứ ba làm chuyện đó!” Trước sự reo hò của tất cả mọi người trong buổi tiệc, vị Chỉ huy trưởng “recglo” này miễn cưỡng bước ra sàn nhảy.
Ngoài việc nghiêm khắc trong vấn đề ăn chơi, tóc tai của nhân viên trong căn cứ cũng được kiểm soát chặt chẽ. Tất cả nhân viên phải ăn bận chỉnh tề và đầu tóc phải luôn luôn húi cao theo tiêu chuẩn ba phân. Mỗi buổi sáng thứ Bảy tại sân cờ, Đại tá Phúc đi thanh tra với một anh Quân Cảnh. Vị nào tóc dài sẽ bị xén một đường tông đơ và sau đó sẽ tự ra tiệm điều chỉnh lấy.
Một hôm Đại tá Phúc đi ăn ở Câu Lạc Bộ Sĩ quan tình cờ gặp Lý Tống với mái tóc “hippy” đang ngồi đấu láo với bạn bè. Ông bèn hỏi: “Tại sao anh không đi chào cờ?” Lý Tống trả lời: “Thưa Đại tá, tôi bận lo kiểm tra nhà bếp nên không đi chào cờ được”. Đại tá Phúc giận dữ: “Tôi không cần biết lý do gì! Ngày mai anh trình diện tôi với đầu tóc ngắn ba phân, nghe chưa!” Sáng hôm sau Lý Tống trình diện vị Chỉ Huy Trưởng với cái đầu cạo trọc lóc cùng với bộ râu Hitler quái đản. Đại tá Phúc tức giận gọi thẳng Đại tá Không Đoàn Trưởng 92, Lê Văn Thảo, cự nự: “Thằng Lý Tống cạo trọc đầu có giấy phép bác sĩ chưa?” Cũng nên biết rằng nhân viên phi hành không được cạo đầu trừ khi có giấy đồng ý của bác sĩ vì lý do sức khỏe. Đại tá Thảo binh đệ tử, trả lời: “Tôi nghĩ ông không nên chọc tên khùng đó là hơn!” (ngưng trích)
* * *
Tin hay không tin những gì Vĩnh Hiếu viết, và nếu tin thì tin bao nhiêu phần trăm là tùy độc giả, riêng tôi từng sống dưới trướng ông Phúc, bị ông gửi nhốt ở quân trấn 5 ngày về tội trễ phép, và từng chứng kiến sự ngang tàng (và vô lễ với thượng cấp cũ, Đại tá Võ Văn Ân) của LT ở Thái Lan nên tin... 50%.
Viết rõ ràng hơn, tôi tin những sự việc trên có thể đã xảy ra nhưng mức độ “gây cấn” không đến nỗi như Vĩnh hiếu đã mô tả, bởi cứ theo lời ông Lê Bá Định (sếp của tôi ở Pleiku), ông Đỗ Trang Phúc “không ngán cha nào ở BTL/KQ cả” chẳng lẽ lại chịu thua một anh trung úy?!
Nhưng dù chỉ với 50% ấy, chúng tôi - anh em KQ ở Úc Châu - và cả Đại tá Võ Văn Ân cũng phải điên đầu với Lý Tống sau khi anh được nhà cầm quyền CSVN thả vào đầu năm 1998.
* * *
Để độc giả thấy được mức độ tôn sùng và sự ủng hộ của đồng bào ở Úc Châu dành cho LT cao tới mức nào, tôi phải trở lại năm 1992, năm “ông thần” LT uy hiếp phi công chiếc phi cơ của Vietnam Airlines xuống thấp trên không phận Sài Gòn để anh thả truyền đơn chống cộng rồi sau đó nhảy dù.
Khi biết nội dung truyền đơn kêu gọi dân chúng trong nước nổi dậy lật đổ chế độ cộng sản, phía dưới ký tên “Lý Tống, Tư lệnh lực lượng nổi dậy”, tôi hiểu đây chỉ là hành động chơi bạo lấy tiếng của LT, nhưng với đại đa số đồng hương ở Úc thì LT là một người hùng, bất chấp hiểm nguy, tù tội để nêu cao chính nghĩa của người Việt quốc gia!
Chưa bao giờ người Việt tỵ nạn tại Úc lại xôn xao, háo hức, hăng hái lên tiếng ủng hộ một nhân vật chống cộng mạnh mẽ đến như thế. Họ gọi anh là Freedom Fighter: Chiến Sĩ Tự Do.
Nhưng với luật pháp quốc tế, hành động uy hiếp, đe dọa phi hành đoàn của LT phải bị xem là tội “không tặc” (hijack), các Ban chấp hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do không thể công khai lên tiếng ủng hộ hành động không tặc của “người hùng”.
Vì thế tại hầu hết các tiểu bang, Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH được trao trách nhiệm thành lập các Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống.
Nhưng các Hội Cựu Quân Nhân ở Úc tuy danh xưng nghe thì oai, trên thực tế thường chỉ có một ban chấp hành chứ không có “lính”, cho nên vì LT là dân Không Quân mọi việc đã được bán cái cho các Hội Không Quân tiểu bang. Thành thử, lấy thí dụ tại tiểu bang Victoria, trừ Trưởng Ban là ông Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân (gốc Hải Quân), đa số nhân lực còn lại đều là người của Không Quân, trong đó tôi đặc trách về truyền thông và làm MC.
Các buổi văn nghệ, dạ vũ, thuyết trình để gây quỹ cho Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống (gọi tắt là “quỹ Lý Tống”) được tổ chức liên tục, với kết quả tài chánh thu được có lẽ chỉ đứng sau các buổi gây quỹ cho Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển (tàu Cap Anamur) trước đây, do Linh mục Joseph Bùi Đức Tiến đứng ra tổ chức, tôi làm MC.
Vì LT bị CSVN kết án 20 năm tù và ở tù tận ngoài miền Bắc cho nên quỹ Lý Tống” được sử dụng vào việc “thăm nuôi” mỗi khi có cơ hội.
Không ngờ tới tháng 9 năm 1998, mới thọ án được 6 năm, LT đã được nhà cầm quyền CSVN ân xá. Sau khi LT trở về Hoa Kỳ, Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống tiểu bang Victoria đã quyết định sử dụng tiền quỹ còn lại mời anh sang thăm Úc để đồng hương Việt Nam có cơ hội đón tiếp, gặp gỡ cho thỏa lòng ngưỡng mộ, còn lại bao nhiêu sẽ trao cho LT “dằn túi”.
Theo tôi nhớ chỉ khoảng một tháng sau khi về Mỹ, xuất hiện tại một hai buổi tiếp đón bên đó, LT đã sang thăm Úc như một... ông hoàng!
Thật vậy, nếu không kể lần đón Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh trước đó mấy tháng (có sự tham gia của Tổng Hội Sinh Viên VN Úc Châu), xưa nay chưa có buổi đón tiếp nào tại phi trường Melbourne có nhiều người tham dự đến thế, đặc biệt là giới truyền thông.

Hội Không Quân Victoria đón LT tại phi trường Melbourne
Từ Hoa Kỳ, LT sang Melbourne trước tiên vì Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống tiểu bang Victoria đứng ra mời, và anh em KQ ở Victoria - lực lượng chính trong Ủy Ban - đã đứng ra lo liệu nơi ăn chốn ở cho LT và sắp xếp toàn bộ chương trình; Hội CQN Victoria chỉ có trách nhiệm cử người hướng dẫn LT đi một vòng các tiểu bang rồi trở lại Melbourne.
Chỉ riêng tại Victoria, chúng tôi đã tổ chức:
- Buổi chào đón chính thức tại trụ sở Hội CQN tiểu bang (nơi nói chuyện của NT Nguyễn Xuân Vinh hồi đầu năm)
- Buổi BBQ & ăn tối thân mật tại tư gia một hội viên KQ, có sự tham dự của nhiều thân hữu (và một số “người đẹp” ái mộ LT)
- Dạ tiệc & dạ vũ chào mừng LT tại Candelles Reception.
- Party tại tư gia một hội viên KQ trước khi LT lên đường trở về Hoa Kỳ.

Lý Tống tại TTSH CQN Victoria với bức hình "Dựng Cờ" do một chiến hữu tặng
Nói chung, về mặt tuyên truyền cho chính nghĩa “chống cộng” cũng như quảng cáo cho cá nhân LT, chuyến Úc du của anh đã thành công tốt đẹp, và tập thể Không Quân ở Úc cũng được hãnh diện lây trước sự ái mộ, đón tiếp nồng nhiệt đồng hương dành cho người phi công anh hùng và hào hoa phong nhã.
Tuy nhiên cũng có những cái không được tốt đẹp mà không phải ai cũng biết, cũng để ý tới. Thứ nhất là cung cách giao tiếp, ứng xử của LT; rất có thể đó là do bản tính coi trời bằng vung của anh nhưng nói gì thì nói, việc xem thường các niên trưởng, thân hào nhân sĩ, các “chức sắc” trong cộng đồng dứt khoát là một việc không hay.
Chẳng hạn trong dạ tiệc & dạ vũ chào mừng anh tại Candelles Reception với trên 300 người tham dự, chúng tôi đã sắp xếp anh ngồi bàn VIP với các vị Chủ tịch Cộng Đồng, Chủ tịch Hội CQN, và một số niên trưởng Không Quân, Lục Quân... nhưng sau khi lên sân khấu phát biểu mấy câu, trở xuống bàn ngồi được một lát là LT bỏ đi, tới cái bàn có những người đẹp ái mộ mình để tán dóc (và tán tỉnh).
Trước tình trạng này, ông Chủ tịch Hội CQN, tức Trưởng Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống, tìm tới tôi (MC) để than phiền, yêu cầu tôi mời LT trở lại bàn VIP. Dĩ nhiên, đời nào LT thèm nghe lời tôi!
Nhưng cái không tốt đẹp đáng nói nhất phải là trong nội bộ Không Quân, một phần vì cung cách ăn nói (và cái tật “nổ”) của LT với các niên trưởng, chiến hữu KQ, một phần vì LT có thái độ khinh bạc với đàn bà con gái khi nhắc tới những người đã đi qua đời anh, hoặc qua tay anh.
Tệ hại hơn cả là việc anh khoe có một đứa con gái với một cô gái nọ nhưng sau đó không hề có ý định tìm gặp đứa con!
Vì thế, LT đã dần dần đánh mất cảm tình ban đầu nơi anh chị em trong Hội KQ Victoria, nhất là các bà vợ KQ. Hậu quả, tới ngày LT rời Melbourne trở về Mỹ số người ra phi trường tiễn anh chỉ bằng 1/3 ngày đón anh tới Úc.
LT buồn ra mặt. Anh nói với vợ tôi, có ý trách móc:
- Chỉ có mấy người vậy thôi sao!
Trước cảnh này, tôi cũng cảm thấy mủi lòng, thương tội LT. Nhưng biết sao hơn, mỗi người có quan niệm sống khác nhau, được tự do lựa chọn lối sống mà mình yêu thích, thì phải chấp nhận mọi hệ lụy, khen chê của người đời thôi.
(Còn tiếp)
- Details
 - Category: Tài Liệu KQ
 - Hits: 449
 
        
        
                        