Login to your account

Username *
Password *
Remember Me

Kompong Trach: Cuộc Giải Vây Thần Kỳ - Điền Đông Phương

Lời Nói Đầu:
Kompong Trach và Đại Úy Nghê Thành Thân
Hơn ba năm về trước, Đông Phương có đề nghị cùng Ngụy tui viết trận chiến Kompong Trach. Ngụy tui từ chối và năn nỉ Đông Phương viết một mình. Sau đó mất liên lạc. Hỏi thăm khắp nơi không ai biết. Người đã lên non tìm động hoa vàng ngủ say chăng? Hay Người đã sum họp cùng những Kỵ Binh danh tiếng muôn đời: Trung úy Nguyên , Trung úy Diện , Thiếu úy Minh Đức hay những đàn em đúng chỉ số Được, Lến lác v.v…Lòng buồn biết tỏ cùng ai. Tư Tưởng ( Đại úy Nghê Thành Thân) thúc hối Ngụy tui viết thư về địa chỉ cuối cùng mà Ngụy tui đã từng liên lạc với Đông Phương . Một ngày không chờ không mong mà đến. Đông Phương gọi phone cho biết Người “long thể bất an”. Nhưng Người đã gửi cho Ngụy tui ba bài viết về trận Mậu Thân , Kompong Trabek và Kompong Trach tùy nghi sửa chữa và sử dụng .



Kompong Trạch:

một địa danh xa lạ, một nơi chốn xa tít mù khơi. Một địa danh ít người biết đến . Kompong Trach chỉ là một quận lỵ nhỏ của tỉnh Kampot thuộc Kampuchea, cách Hà Tiên của Việt Nam chừng 15 km . Nhưng địa danh Kompong Trach cũng là nơi đã làm nên danh tiếng muôn đời cho Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh nói chung và Chi Đoàn 3/2 Thiết Kỵ nói riêng. Bằng một trận đánh để đời. Đặc tính Mau & Manh đã được áp dụng tối đa. Bằng sự đồng tâm nhất trí không ngại gian khó, không ngại hy sinh. Bằng sự nhận đinh đúng đắn tình hình chiến trường của Đông Phương. Đã tận dụng sức mạnh tối đa, và một chiến thuật hợp lý, các Bạch Mã đã hiên ngang lên đường cán lên đầu giặc mà đi. Đã ghi lại một nén son huy hoàng trong chiến sử QLVNCH. Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh là một Thiết Đoàn ngoại hạng. Nơi sản sinh ra những vị tướng uy dũng cho QLVNCH như Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh , Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá , Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ…Thiết Đoàn 2 KB cũng là nơi mà các Chi Đoàn Trưởng Thiếu Tá Trương Văn Điền , Ngô Văn Cứ, Lê Văn Duyệt những Đại úy Hà văn Ron , Trung úy Nguyên, Diện, Hạnh, Lộc , Nghi… Những Ha Sĩ Quan độc nhất vô nhị Thượng sĩ Mười, Thượng sĩ Giỏi. Những Trung sĩ Hoàng, Thạnh, Chị, Được , Mảnh.. những binh sĩ Ha sĩ Lến, Xí , Phàn, Thanh, Ba…tung hoành ngang dọc. Vết xích đã in đậm trên khắp chiến trường Quân khu IV và cả chiến trường Kampuchea. Có người đã hy sinh đền nợ nước. Nhưng dù còn sống hay đã hy sinh họ đích thực là những chiến sĩ, những Kỵ Binh cho muôn đời sau. Và đặc biệt là Đại Úy Nghê Thành Thân , Một Chi Đoàn Trưởng lừng lẩy của một thời chinh chiến binh đao.


Đông Phương viết bài về Trận Chiến Kompong Trach để vinh danh người Kỵ Binh muôn thuở: Đại úy Nghê Thành Thân. Con chiến mã uy linh , rực rỡ và hào hùng. Con chiến mã từ giã gia đình khoác chiến bào đi chiến đấu khi tuổi đời còn quá trẻ. Chiến đấu vì dân vì nước, không vì huy chương cấp bậc. Còn nhớ những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Lấy được cây sơn pháo 85 ly đầu tiên tại Quân khu IV, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã chấp thuận cho đặc cách lên Thiếu Tá. Nhưng Thiết Đoàn Trưởng trình Tướng Nam, Đại úy Thân mới lên Đại úy thực thụ 3 tháng. Nghe thế Tướng Nam ân thưởng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Thực ra Đại úy Thân đeo Đại úy nhiệm chức 3 năm. Không biết vì lý do gì không được chạy thực thụ cho nên có cảnh Chi Đoàn phó lên thực thụ trước Chi Đoàn Trưởng. Bên bàn nhậu với chúng tôi, Đại úy Thân cười ha hả. Đại úy mà có Đệ Ngũ Đẳng là quá bảnh. Không hề nãn lòng chiến sĩ. Không bất mãn vu vơ . Vẫn là một kỵ binh can đảm, một Chi đoàn trưởng tận tụy

Trên chiến trường là một Kỵ binh uy dũng. Trên cương vị chỉ huy, ngoài lòng tận tụy, Đại úy Thân còn là một cấp chỉ huy hết lòng thương yêu thuộc cấp. Trong khi các đơn vị khác phải chi tiền để đựoc đi phép, Đại úy Thân đã cho lính đi phép luân phiên. Với gương mặt rạng rỡ, những Kỵ binh tay chào kính, tay kia nhận giấy phép và 2000 đồng tiền lộ phí đi đường. Có thì trả lại, không có thì …xù. Bởi thế tinh thần anh em Kỵ binh trong Chi Đoàn rất cao. Chiến trận dù lớn dù nhỏ không hề sờn lòng nãn chí, cùng vị Chi Đoàn trưởng thét roi vung gươm ra sa trường trả nợ núi sông.

Nhớ lại đầu năm 1974, khi mà những Chi đội trưởng lừng lẩy của CD3/2 TK như Trung úy Nguyên , Trung úy Diện đã đền nợ nước. Thiếu úy Hạnh về Bộ chỉ huy thì Ngụy tui giờ đây là Chi đội trưởng, Chi đội xung kích. Trên đường đi tiếp cứu Trung Đoàn 15 Sư Đoàn 9 BB bị kẹt tại Chương Thiện, xe của Đại úy Thân bị mìn. Trung Tá Anh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 BB, đáp trực thăng xuống và chỉ cho tải thương một mình Đại úy Thân mà thôi. Khi Nguy tui trình lại thì Anh Thân yêu cầu trực thăng phải tải thương hết. Nếu không Anh Thân sẽ theo chuyến tải thương cùng với anh em bằng ghe tắc ráng. Cuối cùng Trung Tá Anh đồng ý và Anh Thân là người cuối cùng lên trực thăng tải thương. Trước khi đi Anh Thân luôn dặn dò Ngụy tui phải trì hoản chờ Đông Phương đến. Anh có quá nhiều huy chương Anh Dũng Bội Tinh Nhành Dương Liễu nhưng Anh không quý bằng 5 cái Ngôi Sao Đỏ Chiến Thương Bội Tinh của anh. Anh là người của chiến trận, của hào hùng anh dũng, của tình yêu thương đồng đội. Anh đặt tình thương lên trên kỷ luật. Và đó là sức mạnh vô cùng của Chi Đoàn . Giúp cho Chi Đoàn đi từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác .

Ngụy tui là một đàn em nhỏ nhoi. Anh Thân thương Ngụy tui như một người em nhỏ. Ngụy tui là một COCC đúng ra không phải ra chiến trường, làm một chậu kiểng muôn đời. Nhưng không! Ngụy tui đã “hiên ngang” ra chiến trường máu lửa với một kiến thức quân sự là con số không. Một tác phong hippy yé yé. Coi đời và cái chết nơ pa. Anh đã hết lòng dạy dỗ cảm hóa con người Ngụy tui để Ngụy tui giờ nầy không phải cúi mặt trước Tổ Quốc, đồng bào. Để Ngụy tui có chút hãnh diện được góp phần xương máu cùng tất cả anh em chiến hữu đã và chưa đền xong nợ nước. Để được nói với con cháu mình rằng Nguy tui đã một thời là một chiến sĩ QLVNCH, đã góp chút công sức trong cảnh Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách. Một lời cảm ơn chưa đủ. Phải một ngàn lần cảm tạ tri ân anh đã biến Ngụy tui, một Kỵ binh lè phè, chán nản, phản chiến, vô trách nhiệm trở thành một Kỵ binh đúng nghĩa. Không cứ gì Ngụy tui. Xin hỏi bất cứ một người lính một Sĩ quan nào trong đơn vị về anh, sẽ được nghe họ nói về Anh,một người lính, lúc nào cũng đặt Tổ Quốc lên trên hết . Với tinh thần Trách Nhiệm và Danh Dự của người Kỵ binh, Anh đã chu toàn nhiệm vụ được giao phó .
Anh đã chiến thắng tất cả các trận đánh của anh tuy rằng QLVNCH đã bị bức tử
Đại úy Nghê Thành Thân, là một người Anh bao dung , một người thầy vĩ đại của Ngụy tui muôn đời.
NguySaigon
Chi Đoàn 3, Thiết Đoàn 2 KB



Đầu tháng 6/1972, đơn vị tôi đang làm nhiệm vụ ngăn chận đường dây xâm nhập của quân cộng sản Bắc Việt từ Kampuchea qua ngã Hà Tiên đến Thất Sơn, dựng hàng rào kẽm gai dọc theo kinh Tám Ngàn từ Vàm Rầy (ở khoảng giữa đường từ Rạch Giá đi Hà Tiên) thẳng đến Ba Chúc, Tri Tôn thuộc vùng núi Thất Sơn, Châu Đốc.
Hôm đó tôi đi ca nô ra thăm Chi Đội đang bảo vệ căn cứ hỏa lực đóng ở Vàm Rầy, mục đích là để thăm người bạn kết nghĩa cũng là Chi Đoàn Phó của tôi, Nghê Thành Thân.
Tôi xin nói thêm một chút về Nghê Thành Thân, con người của một thời lừng lẫy.

Hai chúng tôi cùng tuổi, nhưng vì tôi gia nhập Quân Đội trước Thân nên coi như là niên trưởng! Lời hứa giữa hai chúng tôi là, nếu một trong hai người chết đi, thì người còn sống sẽ đùm bọc gia đình của người đã ra đi!
Thân rất đặc biệt, là con một của ông chủ rạp hát ở Cà Mau, tốt nghiệp Thủ Khoa khoá Sĩ Quan Căn Bản Thiết Giáp . Ngày đáo nhậm đơn vị thì chính ông Bố dẫn con trai đến trình diện Thiết Đoàn Trưởng với lời “gửi gắm” xin cho con mình ra phục vụ đơn vị nào… dữ nhất! Ông Bố chịu chơi này cũng chính là người đã nhiều lần đến quân trường để đứng từ bên ngoài dỡ hàng rào kẽm gai lên cho con mình đang là Sinh Viên Sĩ Quan chui “lỗ chó” để “dù” về Sài gòn, rồi hai cha con đi nhậu trong đêm, sáng trở lại quân trường! Cũng chính ông đã nhiều lần lặn lội, vượt qua nhiều trạm của Việt Cộng để thăm con trong vùng hành quân, lần nào cũng xách theo một giỏ xách đầy… rùa! Vì ông biết chúng tôi khoái nhậu rùa, nhưng không dám chở rùa trên xe vì sợ… xui .

Có lẽ Thân cũng là người duy nhất mà khi còn ở cấp bậc Thiếu úy đã có được 4 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, Bronze Star của Hoa Kỳ, chưa kể những Anh Dũng Bội Tinh với sao vàng, sao bạc! Một con người mà ai cũng quý mến, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, Danh tướng Nguyễn Khoa Nam mỗi khi có dịp họp với các đơn vị thì bất kể có sự hiện diện của các Tư lệnh Sư Đoàn, Trung Đoàn Trưởng… ông luôn kéo Thân lên ngồi bên cạnh ông, dù lúc đó Thân chỉ là Đại úy .
Trở lại hôm đó, khi hai anh em uống gần hết hai hũ Ngũ Gia Bì, điểm đặc biệt khi chúng tôi uống rượu với nhau là không ai nói lời nào ngoài câu “Mình cạn ly này…”, nhưng hôm đó thì ngoại lệ, khi Thân trầm ngâm một lát, rồi nói với tôi:
- Trong vòng nửa tháng nữa, tôi sẽ chết… anh Điền!
Tôi biết Thân đang nói chuyện nghiêm chỉnh, nên hỏi:
- Tại sao anh biết?
Thân đưa tay vào ngực áo, móc ra tượng Phật làm bằng nanh heo rừng:
- Tượng Phật báo!

Tôi thấy lòng mình chùn xuống, không thể uống hết phần còn lại của ly rượu, tôi đứng lên đi xuống ca nô trở về căn cứ . Khi ca nô về gần đến căn cứ thì Thiết Đoàn Trưởng gọi, bảo tôi chuẩn bị 10 phút sau sẽ có trực thăng đến bốc tôi lên Hòn Sóc gặp ông.
Tại Hòn Sóc, tôi nhận lệnh thu xếp tất cả các thứ để ngay chiều hôm đó đưa Chi Đoàn đến Tô Châu, Hà Tiên để trình diện Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân Đoàn IV đang ở đó. Nhiệm vụ của chúng tôi sẽ là đi Kampong Trach để giải tỏa áp lực địch, vào bắt tay với Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh gồm Thiết Đoàn 12 KB và Thiết Đoàn 16 KB cùng 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân do Đại tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng BDQ Vùng IV làm Chiến Đoàn Trưởng. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đang trú đóng tại thị trấn Kompong Trach… Cả Chiến đoàn đang chịu áp lực rất nặng của Công Trường 1 CSBV từ nhiều ngày qua, Lữ đoàn 4 Kỵ Binh đã bị bắn cháy 19 thiết vận xa M113. Thiết đoàn 9 ( ) doTrung Tá Phạm Minh Xuân, Thiết Đoàn Trưởng, chỉ huy được tăng phái vừa đến Kompong Trach lúc 11 giờ đêm, bị điều động đến bố trí qua đêm tại khu vườn tiêu cách Thị trấn Kompong Trach 2 cây số về hướng Tây Bắc thì bị tan nát trong vòng nửa tiếng đồng hồ, chỉ còn lại 21 chiếc M113 . Thuốc men, thực phẩm, đạn dược… thả dù tiếp tế nếu rơi ra ngoài phòng tuyến khoảng 50 mét là coi như bỏ, không lấy được…
Chẳng lẽ lời báo trước của Nghê Thành Thân sẽ là sự thật?
Vì quá gấp rút, chỉ có 2 chiếc GMC dùng để chở anh em ở hậu cứ lên công tác và hơn 40 lao công đào binh đến để làm hàng rào ngăn chận cùng một số dụng cụ, nên tôi cho lệnh ném bỏ mấy ngàn cọc sắt và khoảng 500 cuộn kẽm gai còn lại xuống lòng kinh Vàm Rầy, nơi rộng và sâu nhất.
Khi đơn vị đang vượt kinh ở cầu Lỳnh Quỳnh, thì tôi đến gặp Nghê Thành Thân:
- Tình hình cũng… không có gì! Tôi đưa Chi Đoàn đến Tô Châu, còn anh thì dẫn anh em hậu cứ với đám lao công đào binh về nghỉ một thời gian, coi sắp xếp lại hậu cứ giùm tôi…
Thân nhìn tôi đăm đăm:
- Nhưng tại sao đi gấp quá vậy? Không có cả thời giờ để chở cọc sắt kẽm gai về nữa…
- Thì tới Tô Châu mới nhận lệnh, bây giờ chưa biết…
Thân đưa “cặp mắt Đại Hàn” nhìn thẳng tôi, rồi với cái nhếch mép cười cố hữu:
- Tôi không thể bỏ anh trong trận này được, anh Điền…
Sau đó mặc tôi nói gì thì nói, Thân quyết không về hậu cứ. Chiều hôm đó, tại Tô Châu, tôi đã nói cho Thiết Đoàn Trưởng và bạn cùng khóa Đại Úy Phạm Khắc Phước nghe về điềm báo của Thân để nhờ hai người này thuyết phục Thân về hậu cứ, nhưng vô hiệu .

Sau đó tôi đưa đơn vị qua khỏi Thạch Động khoảng 2 cây số và qua đêm ở đó.
Sáng hôm sau, trong khi chờ Biệt Động Quân đến tùng thiết, thì đơn vị tôi và Chi Đoàn 2/2 TK của Đại Uý Ngô Văn Cứ và Chi Đoàn 1/2 TK của Đại Uý Hà Văn Ron nhận tiếp tế nhiên liệu, riêng đạn dược thì chất vào xe đến mức tối đa.
Đến trưa thì Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Đoàn IV cùng với Chuẩn Tướng Nguyễn Huy Ánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân đáp trực thăng xuống gặp tôi. Sau khi bắt tay tôi và các Sĩ quan trong Chi đoàn, vị tướng được xếp vào hàng đầu của QLVNCH bỗng ngồi xuống, tay cầm cây viết vẽ xuống đất để nói về tình hình chung cả nước, rồi nói về mặt trận mà chúng tôi sẽ phải đối mặt. Ông cũng cho biết là lực lượng đi giải tỏa Kampong Trach chỉ có chúng tôi là Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh (gồm 3 Chi Đoàn) và tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân mà thôi, rồi ông kết luận:
- Quân Đoàn I là mặt trận Quảng Trị, Quân Đoàn II là Kontum, Quân Đoàn III là An Lộc… Còn Quân Đoàn IV là trận Kompong Trach này!
Ông nhìn tôi rồi tiếp lời:
- Các anh là lực lượng trừ bị cuối cùng của Quân Đoàn IV, nếu các anh thành công, thì Quân Đoàn IV yên. Nếu các anh thất bại thì Quân Đoàn IV sẽ như 3 Quân Đoàn kia.
Nói xong ông đứng lên, tôi cũng đứng lên theo và nhìn thẳng vào khuôn mặt khắc khổ của vị tướng mà tôi hết lòng ngưỡng mộ. Ông nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Tôi biết Chi Đoàn của anh “chì” lắm, cố gắng nghe anh Điền! Tôi sẽ sử dụng tối đa hỏa lực phi pháo để yểm trợ cho các anh…
Tôi đáp:
- Trình Trung tướng, tinh thần chiến đấu của anh em cao. Trung tướng yên tâm…
Chiều hôm đó, đoàn xe chở Tiểu Đoàn 58 Biệt Động Quân đến, và người bước xuống xe đầu tiên lại là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng . Sau khi xuống xe, ông đi thẳng đến một cây thốt nốt rồi đứng đó nhìn đoàn quân ít ỏi chuẩn bị thi hành một nhiệm vụ quá lớn . Sau khi đến nói chuyện với người bạn cũ là Đại úy Măng, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 58 BĐQ, tôi trở lại Chi Đoàn, thì Tướng Trưởng từ cây thốt nốt đi nhanh về phía tôi, khi đến gần tôi ông không chào đáp mà chỉ bắt tay tôi với lời dặn dò “Cố gắng nghe anh Điền”, rồi lại quay về đứng bên cây thốt nốt!

Tối hôm đó, tôi họp các Chi đội trưởng, Nghê Thành Thân đã có một câu mà cho đến giờ phút này, vẫn còn đầy đủ giá trị: “Trận này coi bộ khó nuốt… Nhưng có tướng Trưởng đích thân điều động, thì khỏi lo!”.
Ngày hôm sau, chúng tôi bắt đầu nhập trận, quân đi như gió bão, chiếm từng cụm vườn, từng khu xóm… hướng về Kompong Trach.
Đến trưa thì chạm súng, phải đến chiều hôm đó mới thanh toán xong những ổ kháng cự. Rồi hai ngày sau đó, chúng tôi bị cầm chân ở khu vực gần ngôi chùa nằm cách Kompong Trach khoảng 5 cây số, vì cộng quân gài chốt ở khắp nơi. Đến ngày thứ 6 thì chúng tôi bám sát được ngôi chùa. Đại Úy Hà Văn Ron, Chi Đoàn Trưởng CD 1/2 Thiết Ky bên cánh trái, và Đại Úy Ngô Văn Cứ, Chi Đoàn Trưởng CD 2/2 Thiết Kỵ phía sau, cứ thế chúng tôi cùng với Biệt Động Quân tùng thiết tiến dần về hướng Bắc.

Hôm đó, trong khi yểm trợ cho BĐQ thanh toán ngôi chùa nằm sát con lộ, tự nhiên tôi linh cảm một cái gì hắc ám từ cánh đồng trống mênh mông bên phải, nhìn về hướng Thất Sơn. Đó là cánh đồng lầy ngút ngàn trông như biển khơi, tôi liền điều động một chi đội cùng với Nghê Thành Thân án ngữ về hướng đó. Khoảng một giờ sau, có lẽ tức quá, vì trong khi anh em đang chạm súng rầm rầm mà tôi lại bố trí Thân và một chi đội hướng ra đồng trống, Thân bỏ xe đi bộ tới gặp tôi:
- Ở đó trống quá có gì đâu Đông Phương?
Tôi giải thích:
- Anh nằm ngoài đó án ngữ rồi quan sát về phía Bắc dùm để trong này được yên tâm, chứ ở đây rậm quá…
Thân quay trở lại xe, khoảng nửa giờ sau thì y như rằng, một tiếng nổ ầm ngay ngoài đồng trống (họ đánh kiểu “đội mồ”) bắn trúng xe của Nghê Thành Thân. Không còn nghe tiếng Thân trên hệ thống truyền tin nữa, tôi lập tức lệnh cho Chi đội của Thiếu úy Hạnh bỏ vị trí, đến tiếp cứu Thân. Chỉ trong khoảnh khắc, ổ B 41 đó bị diệt, Thân vô sự, nhưng phải dùng xe của chi đội khinh kỵ vì xe của Thân đã bị tê liệt . Hôm đó chúng tôi lại bị cầm chân

Ngày hôm sau, trận đánh quyết liệt nhất mở màn, khi cộng quân lùa những đàn bò chạy về phía chúng tôi, rồi họ chạy theo sau với mục đích dùng biển người để cướp sống xe, trong khi đạn pháo của họ bắn chận phía sau chúng tôi. Mấy chục khẩu pháo gần Thạch Động được chúng tôi điều chỉnh bắn thật gần, và bắn tối đa. Ngay sau khi chúng tôi trụ lại được trước sức tiến công của địch quân, thì Không quân VNCH được lệnh xuất kích. Tướng Trưởng đã điều động rất hay ở điểm này, vì khi đó địch quân đã lộ diện, việc dội bom sẽ rất chính xác dù hơi nguy hiểm vì phải dội bom quá sát những đơn vị bạn đang tham chiến, có một đợt bom dội vào ngay giữa đơn vị tôi, nhưng chúng tôi vô sự. Những chiếc phản lực cơ đánh thật đẹp, vừa nghe tiếng gầm thét là họ bỗng xuất hiện, bay thật thấp và dội đủ loại bom từ bom Napalm cho đến bom CPU…, Chúng tôi không cần phải liên lạc vô tuyến để điều chỉnh, mà chúng tôi chỉ cần thả những trái khói màu tại chỗ để đánh dấu đơn vị bạn, và Không Quân VNCH sẽ dội bom về hướng Bắc của những trái khói màu đó khoảng 300 mét trở lên là được .

Ngay sau đợt oanh kích cuối cùng, chúng tôi lập tức tung ra đợt phản công, tràn lên chiếm giữ những nơi vừa bị đánh bom còn đang bốc khói… Dĩ nhiên là Cộng quân phải rút lui chứ bọn chúng cũng không dại gì mà làm những con thiêu thân trước những con chiến mã đang nộ khí xung thiên gầm thét, giáng sấm sét lên đầu bọn VC hung tàn đó.
Anh em bên Biệt Động Quân có vẻ nhụt chí, khiến cho Nghê Thành Thân tức giận nhảy xuống khỏi xe, rồi cùng với một Đại Đội Trưởng của họ là Trung úy Gia xông thẳng vào phòng tuyến địch để họ phải tiến lên theo… Thật ra Thân không phải rời xe để đánh như Bộ Binh như vậy, nhưng trong cơn cuồng nộ của bom đạn, Thân đã quên mình, quên cả tượng Phật…
Hôm đó Chi Đoàn tôi tịch thu được 6 máy truyền tin, 4 khẩu đại liên , một số B 40, B 41 và AK. Buồn cười cho ông Thiết Đoàn Trưởng của tôi là Trung tá Nguyễn Hữu An, ông lấy máy chụp ảnh ra bảo Đại úy Trạng chụp ảnh tôi và ông đang đứng trước đống chiến lợi phẩm, sau trận đánh mới biết cái máy ảnh không có phim trong đó.

Trong số những chiến lợi phẩm tịch thu được, có những quyển nhật ký. Qua những quyển nhật ký đó chúng tôi biết được họ thuộc Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt, cộng với 2 Trung đoàn 51 và 52 Đặc Công, có một thành phần của Sư đoàn 320 mà họ tự nhận là “Sư đoàn Thép” (Vào thời điểm đó, Sư đoàn 320 CSBV đang tham chiến ở mặt trận KomTum ngoài vùng II), Có những câu nhật ký mà tôi còn nhớ rõ qua cách đọc rất tếu của Thiếu úy Hùng (Là người mang bút hiệu “Nguỵ Sài Gòn” đang quậy tùm lum trên các báo chí hải ngoại đấy!) : “Đoàn xe bọc thép của quân ngụy sài gòn mang hình đầu ngựa phun lửa, trong ba ngày đầu đã tỏ ra hung hăng tàn ác… Nhưng những chiến sĩ anh hùng của ta quyết giáng cho chúng những đòn trừng trị đích đáng….”, rồi Hùng kết luận “Sắt thép gì gặp mình cũng thành chuột lắt hết!”. Cũng vui .
Hôm sau lại chạm súng lớn, chúng tôi bị tổn thất khá nặng. Phải rút về biên giới để tái tiếp tế, tái trang bị.

Nhìn những anh em bị thương nằm ngồi la liệt để chờ tản thương, bắt dầu là Đại úy Măng – Tiểu Đoàn Trưởng 58 Biệt Động Quân, rồi Đại úy Ron – Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 1/2 TK . Riêng Chi Đoàn tôi đã bỏ 2 xe, phải đôn khinh kỵ lên làm xạ thủ đại liên, lính Biệt Động Quân thì trở thành khinh kỵ. Cũng được tăng cường thêm một số… “tân binh” đang thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng ra .
Hôm sau lại tiến vào vùng lửa đạn, lại bị cầm chân. Có những cảnh tôi không quên được, như khi hay tin Chuẩn úy Kỳ, một thiếu sinh quân tài hoa vừa bị thương, tôi chạy đến để gặp Kỳ thì nhìn thấy cảnh Kỳ đang nghiến răng dùng lưởi lê tự chặt vào phần xương dưới ống quyển còn dính lại để cho bàn chân rời hẳn đi cho đỡ khó chịu…Lúc đó lại nhận được tin người anh cả, Tướng Ngô Quang Trưởng vừa lên đường ra đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I với mặt trận Quảng Trị… Hôm sau thì Trung tá An, Thiết đoàn trưởng, rời đơn vị và Thiếu tá Nguyễn Văn Việt Tân lên thay thế .

Sau một tuần lễ giao tranh không có kết quả như mong muốn, lại bị tiêu hao từng ngày như thế, tôi nhận định: Quân cộng sản Bắc Việt đã sử dụng tối đa cách gài “chốt” trên trục tiến quân của chúng tôi . Những chốt dày đặc này có hiệu lực ngăn không cho bên trong ra, chận không cho bên ngoài vào, rồi khi có được những yếu tố thuận lợi như địa hình thích hợp thì những chốt đó sẽ kết hợp với lực lượng chủ động để tấn công tiêu diệt đối phương.Và cách đánh đó đã có hiệu quả ngăn chận sức tiến quân của chúng tôi! Rõ ràng là chúng tôi đã bị cầm chân và bị tiêu hao từng ngày .

Như vậy, nếu muốn hoàn thành nhiệm vụ bắt tay với các đơn vị bạn bên trong, giảm thiểu thiệt hại để bảo toàn lực lượng thì chúng tôi phải vô hiệu hóa những chốt đó. Ở nội địa thì tôi đã từng nhiều lần sử dụng những toán “Lôi Hổ” của tôi để đánh đêm, tiêu diệt những cái chốt như thế… Nhưng đó là loại “chốt” lẻ tẻ để vây đồn, còn ở đây là cả một hệ thống chốt .

Trước tình thế đó, tôi thấy rằng, điều tiên quyết để bảo toàn lực lượng là phải bắt tay cho được Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh và Liên Đoàn Biệt Động Quân, rồi cùng nhau đánh trở ra. Vì nếu chúng tôi vào bắt tay được với họ thì tình thế sẽ khác đi: Bắt tay được có nghĩa là lực lượng đang bị bao vây tại Kompong Trach và lực lượng đi giải tỏa là chúng tôi khi đó sẽ hợp thành một lực lượng lớn, thì việc đảo ngược tình thế là dễ dàng… Mà sau hơn một tuần giao tranh, tôi tin chắc là chúng tôi sẽ vào được, nếu quyết tâm!
Đây chính là một cuộc Đọ SỨC VỀ TINH THẦN . Nếu nói về cuộc đọ sức về Kỷ Thuật, về Chiến Thuật thì dễ thôi: Cứ tận dụng khả năng di động cao, hỏa lực mạnh của Thiết Giáp làm lợi thế chính, càn lướt qua các tuyến “chốt” của họ mà đi, chứ nếu cứ dừng lại để thanh toán từng mục tiêu như mấy ngày qua, thì biết đến bao giờ mới bắt tay được, mà còn bị tiêu hao từng ngày…

Nghĩ sao làm vậy! Tối hôm đó tôi họp các Chi Đội Trưởng để nói về ý định của mình, rồi căn dặn:
“Chỉ còn 4 cây số nữa thôi là bắt tay được với Lữ Đoàn, phải cán lên đầu nó mà tràn vào, không cần dừng lại đánh đấm gì cả, xe nào bị bắn hư thì cứ bỏ, không cần kéo theo… Ngày mai chúng ta phải vô tới Kampong Trach!”.

Sau khi các Chi Đội Trưởng đi khỏi, tôi gọi 3 đệ tử ruột của tôi là Mảnh, Được và Ba đến: “Nếu anh có chết, thì tụi em cố đem xác anh về cho chị Ba!”. Những người em đã từng yêu cầu tôi đặt tên cho họ là toán “Lôi Hổ” đó đã nhìn tôi buồn bã …
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi dàn hàng ngang tiến vào những cụm vườn phía trước, không có tiếng súng bắn trả. Chúng tôi tiến sâu hơn, vừa tiến vừa tác xạ và Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ở phía sau cũng tiến theo, Chi Đoàn của Đại Úy Cứ đi song song bên cánh phải. Vì những hố bom B52 dày đặc nên việc di chuyển hơi khó khăn, đến một ngôi chùa kế tiếp buộc chúng tôi phải thu hẹp đội hình để tránh những hố bom, thì từ trên sát nóc của ngôi chùa, một loạt đạn đại liên bắn thẳng xuống xe tôi, trúng vào phía sau lưng ghế tôi ngồi. Bằng động tác phản xạ, tôi phóng qua bên kia pháo tháp rồi nhảy xuống đất vừa núp vào thân xe vừa khoát tay bảo tài xế cứ tiếp tục chạy tới và tôi chạy theo bên hông, ngay sau đó Chi Đội của Thiếu úy Hùng từ phía sau lập tức diệt ngay ổ súng. Trở lên xe thì chiếc ghế tôi ngồi vẫn còn đang bốc khói, đó là chiếc ghế của phi công trực thăng mà từ lâu chúng tôi lấy từ một chiếc trực thăng bị bắn rơi, đạn không xuyên qua được, nhưng người ngồi ngay sau ghế tôi là Thiếu úy Quyền, Tiền Sát Viên Pháo Binh thì bị bứt luôn hai chân! Sở dĩ họ chỉ nhắm bắn vào xe tôi là vì trong khi những xe khác chỉ có một ăng ten thì xe tôi có đến 5, họ biết ngay đó là xe chỉ huy…

Qua khỏi ngôi chùa khoảng 300 mét thì nhiều loạt đạn từ phía sau bắn rượt theo, có lẽ họ vừa hoàn hồn vì không ngờ chúng tôi lại cán lên đầu họ mà tiến. Còn hơn 2 cây số nữa là đến Kampong Trach, Chi Đoàn của Đại Úy Cứ bên cánh phải vừa bị bắn cháy một xe và anh đang dàn hàng ngang chuẩn bị thanh toán mục tiêu. Quyền Thiết Đoàn Trưởng bảo tôi án ngữ chờ Đại Úy Cứ . Không thể dừng lại ở đó trong tình thế như vậy, vì như thế có khác nào đứng bất động làm bia cho địch nhắm bắn từ bốn phía, tôi lập tức nêu lên luận cứ của mình:
- Sắp vào đến nơi rồi mà ở đó lo thanh toán nó là sẽ bị nó cầm chân. Đó là chưa nói đến chuyện ở phía sau mình tụi nó vẫn còn nằm nguyên đó, mình chỉ cán qua đầu nó mà đi thôi, chứ chưa dứt điểm nó… Có nghĩa là mình coi như bị lọt giữa vòng vây, nằm lại đây chỉ làm bia cho nó bắn! Tôi đề nghị bỏ mấy con chuột lắt đó đi, cứ tiếp tục cán qua đầu nó mà tiến. Bắt tay được rồi, tôi bảo đảm khi trở ra, mấy con chuột đó mà ló đuôi con nào là tôi sẽ chặt đuôi vạt mõm con nấy… Mấy ngày nay cho thấy tụi nó chỉ là chuột lắt thôi, chứ không phải “Sư Đoàn Thép”, Trung Đoàn Đặc Công con khỉ gì đâu .

Quyền Thiết Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Việt Tân đồng ý, thế là chúng tôi tiếp tục tràn lên. Từ những phòng tuyến, cộng quân đã bắn trả theo kiểu chỉa súng lên trời mà bắn chứ không dám ngóc đầu lên để nhắm bắn vì lưới lửa của chúng tôi dày đặc. Tràn qua hết phòng tuyến này đến phòng tuyến khác, còn một cây số nửa là sẽ bắt tay đơn vị đầu tiên ở bên trong. Chúng tôi yêu cầu họ trú ẩn để tránh đạn cho đến khi chúng tôi vượt qua khỏi họ, vì chúng tôi vừa tiến vừa tác xạ, chứ không thể ngưng bắn được. Quả thật đối phương đã bất ngờ, chúng không làm gì được ngoài việc bắn vét đuôi chúng tôi với những loạt đạn vu vơ nghe như những tiếng thét vô vọng… Trong niềm vui đang dâng tràn tôi đã đứng lên chộp lấy một trái xoài chín khi xe tôi đang tiến dưới bóng một cây xoài rồi quay nhìn về phía sau, nơi xuất phảt những loạt đạn vớt vát đó, tôi nghĩ đó có thể là những cái chốt đã ngăn chận các đơn vị bị vây bên trong .

Và cuối cùng, mấy chiếc M113 của đơn vị bạn hiện ra lù lù phía trước. Chiếc xe đầu tiên mà tôi gặp là xe của Đứa, người bạn thân khi 2 chúng tôi còn là Chi Đội Trưởng. Sau khi bố trí đơn vị, tôi cặp sát vào xe của Đứa. Đứa đang đứng dưới đất chờ tôi, hai anh em tay bắt mặt mừng bất kể những quả đạn pháo của họ đang nổ chụp ngay trên đầu .

Khoảng nửa giờ sau, khi tôi và Đứa vẫn còn đang đứng đấu hót, thì một chiếc C130 từ hướng Kampong Trach rà sát ngọn cây bay về hướng Hà Tiên sau khi thả đồ tiếp tế xuống cho các đơn vị trong Kompong Trach, thì cả một vùng chung quanh tôi rộ lên những tiếng súng nhỏ, súng đại liên bắn lên chiếc máy bay. Với số lượng tiếng súng nổ như thế, ít lắm cũng phải có cả ngàn tay súng . Nhìn chiếc máy bay khổng lồ bay sát ngọn cây trong rừng đạn bắn lên như thế, ta mới thấy được sự hy sinh của những người phi công như thế nào. Tôi chợt nhớ lại hình ảnh mấy chiếc trực thăng bị bắn rơi mà tôi vừa đi ngang qua lúc nãy…

Có một chuyện buồn cười là chiều hôm đó, bọn VC nhảy vào hệ thống truyền tin nội bộ của Chi Đoàn tôi, rồi điều động như thể họ đang tiến sát để… diệt gọn chúng tôi vậy. Thế là mấy Chi Đội Trưởng Nguyên, Hạnh, Diện, Hùng, Lộc được dịp đấu khẩu tiếu lâm cho đến khi họ im, và chúng tôi phải thay đổi tần số truyền tin.Tôi vẫn tưởng đêm đó sẽ là đêm không ngủ, vì chắc chắn họ sẽ “dàn chào” chúng tôi. Nhưng không hiểu sao họ đã im lặng, có lẽ vì tổn thất của họ đã quá lớn. Ngày hôm sau, chúng tôi án ngữ hai bên trục lộ để yểm trợ cho các đơn vị bên trong triệt thoái về Hà Tiên, tôi cũng đã gửi những thương binh, tử sĩ của đơn vị tôi theo họ về trước, vì chúng tôi còn phải ở lại.
Cuộc triệt thoái đã diễn ra êm thắm vì cộng quân đã rút đi trong đêm đó. Sau đó đơn vị tôi cũng trở về nội địa, giữ Quốc lộ 4 từ Trung Lương đến Bắc Mỹ Thuận, cũng là để nghỉ dưỡng quân. Trong một tối nhậu ở quán của Mỹ Tiên tại Trung Lương, Thân đã ra vườn mận phía sau quán cởi bỏ cái tượng Phật, không đeo nó nữa. Mỹ Tiên đã phải cầm đèn đi ra tìm, nhưng không gặp.

Nhưng có điều là sau đó một tháng thì Thân bị thương, ở Kompong Trabek, một mảnh đạn ghim vô ngực, phải về nằm bệnh viện, bỏ lỡ dịp đi giải toả quận Kiên Lương và nhà máy xi măng Hà Tiên ngay sau đó. Khi đơn vị tôi đánh bật địch ra khỏi quận Kiên Lương, chiếm lại nhà máy xi măng thì Thân mới trở ra đơn vị…

Để cho tâm hồn được thanh thản, cũng là để thực hiện lời hứa với một người bạn đã chết, và trên hết vì nỗi khổ đau của những người vợ, những đứa con, những người thân của bao nhiêu chiến sĩ đã tử trận ở Kompong Trach trong mùa Hè 1972 đó, tôi xin nói lên một sự kiện đau lòng sau đây để nhắc nhớ quý vị niên trưởng của chúng tôi, những cấp chỉ huy, trong Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn trú đóng tại Kompong Trach: Là quý vị đã bỏ rơi Tiểu Đoàn 94 BĐQ. Tiểu Đoàn BĐQ nầy nằm giữ phía Bắc Kompong Trach không hề hay biết về cuộc triệt thoái. Khi quý vị đã an toàn về đến VN thì Tiểu Đoàn 94 BĐQ bị quân CSBV xâm lược cường tập dứt điểm. Đại úy Lâm, Tiểu Đoàn Phó tử trận cùng bao nhiêu chiến sĩ BĐQ. Mãi đến hôm sau Thiếu Tá Ngọc, Tiểu Đoàn Trưởng cùng khoảng mười chiến sĩ sống sót thất thểu ra đến xe tôi . Hình ảnh Thiếu Tá Ngọc đến bên xe tôi, không nói một lời, nặng nề cởi nón sắt và buông rơi xuống đất. Rồi ngồi bệt xuống đất gục đầu trong khổ đau bi hận đã khiến cho anh em chúng tôi cảm thấy mình bị phản bội bởi những cấp chỉ huy mà chúng tôi vừa vào sinh ra tử để cứu họ.

Ít ra quý vị cũng phải báo cho chúng tôi biết còn một Tiểu Đoàn 94 BDQ tại Bắc Kampong Trach để chúng tôi khỏi bắn lầm vào họ khi họ xuất hiện từ xa. Chúng tôi đã bắn vào họ như thế đấy . Chúng tôi không thể hiểu tại sao Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn lại phải hy sinh nguyên một Tiểu Đoàn BDQ khi mà chiến trường đã được giải tỏa .Chúng tôi thấy không cần thiết phải hy sinh một Tiểu Đoàn như thế.
Xin đừng bao giờ nhắc đến những chiến công của quý vị nữa, mà hãy đếm xem có bao nhiêu con người đã phải chết tức tưởi vì quý vị. Bên cạnh những cái chết oan khiên đó là bao nỗi khổ đau vô vàn của những người vợ góa, con côi, những cha mẹ, anh chị em ruột thịt, cùng những người thân yêu của họ còn ở lại…

Dẩu biết rằng chiến tranh là có chết chóc, có thương đau, là chia ly vĩnh biệt nhưng sao nghe nghẹn ngào và cay đắng quá.

Điền ĐôngPhương
- Mùa Hè 1972
 
Rate this item
(0 votes)