Login to your account

Username *
Password *
Remember Me

Ý NGHĨA NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19/6 - Phạm Phong Dinh

Posted by June 20, 2020 4169

Ý NGHĨA NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19/6


Phạm Phong Dinh

---oo0oo---

 

 

Ngày 20.7.1954 đánh dấu ngày Quốc Hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi cộng sản Bắc Việt cùng với thực dân Pháp ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh giới Bắc Nam. Ðó cũng là ngày đánh dấu cuộc di cư từ bỏ chế độ cộng sản lần thứ nhất của người Việt với gần một triệu dân miền Bắc gồng gánh bồng bế nhau tìm đủ mọi cách để được đáp tàu vào vùng đất miền Nam tự do, nơi đó nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ đang chập chững những bước đầu tiên trong cộng đồng chính trị thế giới.


Giữa bối cảnh một nửa đất nước oằn oại rên siết trong gông cùm cộng sản, trong bóng đêm của dối trá và tội ác, một nửa nước còn lại vừa phải đối phó với quân cộng sản còn nằm mai phục trong các chiến khu cũ thời Pháp và đương đầu với những vấn đề ổn định nội bộ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng lúc đó là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, tiếp nhận di sản nghèo nàn và lạc hậu do phía quân đội Pháp hồi hương bàn giao lại, đảm nhận trọng trách nặng nề bảo quốc an dân. Ngày 1.7.1955 Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam chính thức hình thành, đánh dấu ngày khai sinh một quân lực non trẻ mà đã dám chiến đấu chống lại cả một đại khối cộng sản quốc tế hung hãn tràn xuống từ phương Bắc. Tên tội đồ dân tộc, kẻ giết hàng triệu người mà miệng vẫn cười Hồ Chí Minh, một cán bộ cao cấp của cộng sản quốc tế, cúi đầu làm chó săn nhận vũ khí và thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của quan thầy Nga Sô và Trung Cộng, vơ vét thanh thiếu niên miền Bắc đẩy vào miền Nam bắn dùng bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thực hiện sách lược “Dùng người Miền Nam giết người Miền Nam” tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình.

Dưới thời của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa, sau khi ông chính thức làm Tổng Thống sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý 1955, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với xác quyết quân đội sẽ được phát triển và tối tân hóa thành một đạo quân mạnh để đập tan bất cứ một cuộc xâm lược nào từ phương Bắc. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt lịch sử 20 năm chiến đấu bảo vệ tổ quốc, tuy có những lúc thăng trầm nghiêng ngửa, có những lúc thiệt hại nặng nề, nhưng những người chiến binh dũng cảm Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, không chấp nhận chế độ cộng sản, quyết đánh cho đến hơi thở và giọt máu cuối cùng. Từ ngày 1.11.1963, sau khi một nhóm tướng lãnh đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, đất nước và quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị suy yếu trầm trọng vì tình trạng chỉnh lý tranh giành quyền lực liên miên giữa các tướng lãnh. Cộng Sản Bắc Việt nương cơ hội này lăm le tràn xuống đánh dứt điểm miền Nam. Hồi tưởng lại hoàn cảnh đất nước thật đen tối trước ngày 19.6.1965, vận mệnh của nước Việt Nam Cộng Hòa như sợi chỉ mỏng manh treo nghìn cân trước làn sóng xâm nhập đã bắt đầu ồ ạt với hàng trăm ngàn quân chính qui Bắc Việt đã có mặt ở Miền Nam.

Về chính trị, tình hình đầy xáo trộn và bất ổn. Những cuộc xuống đường dưới sự khích động của những phần tử cộng sản nằm vùng và trà trộn liên miên xảy ra, mà hậu quả hiển nhiên và tức thì là sự rối loạn, khẩn trương của xã hội, dân chúng lúc nào cũng lo âu trước thời cuộc hỗn độn. Cộng sản nhân đó gia tăng những hoạt động tuyên truyền, phá hoại, lũng đoạn hàng ngũ những người Quốc Gia. Ở nông thôn thì Việt cộng gia tăng khủng bố dân chúng, bắt cóc, thủ tiêu và ám sát dã man những viên chức xã ấp tận tụy với chính nghĩa quốc gia, thậm chí những người dân vô tội dù chỉ tỏ chút ngần ngừ hay biểu lộ thái độ không hợp tác, ủng hộ, là đã có thể bị Việt cộng tuyên án tử hình và hạ sát. Bầu không khí sợ hãi, chết chóc bao trùm khắp miền nông thôn, nhất là ở những cùng xa xôi hẻo lánh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thiết lập nền an ninh vững chắc.

Về mặt quân sự, lợi dụng lúc giao thời, chính phủ dân sự Việt Nam Cộng Hòa không có khả năng tập họp được sức mạnh của quân đội, cộng sản liên tục cho binh đội xâm nhập Miền Nam, chuyển dạng thái chiến tranh xâm lược từ du kích chiến sang vận động chiến, mở những trận đánh lớn để thử thách sức mạnh và ý chí chiến đấu của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, điễn hình là những trận đánh Bình Giả và Ðồng Xoài cuối năm 1964 và giữa năm 1965. Trong bối cảnh chính tình nhiễu nhương, quân đội không được lãnh đạo và chỉ huy thích đáng, đã đưa đến thiệt hại rất nặng cho quân ta trong hai trận đánh này, mà chỉ trông cậy vào trái tim nồng nàn tình đất nước tình đồng bào và chính thân xác của các anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có thể cắn răng ngăn chống được cơn sóng dữ cộng sản đã mấp mé gần ngưỡng cửa Sài Gòn.

Về mặt kinh tế, vì chiến tranh tàn phá, đất đai bị bỏ hoang, do đó mức sản xuất sút kém, đời sống dân chúng lệ thuộc vào ngoại viện. Một đất nước từng xuất cảng gạo mà phải nuốt nước mắt nhận những hạt gạo gọi là viện trợ của nước ngoài. Trong khi đó cộng sản luôn tìm cơ hội cắt đứt đường tiếp tế giữa nông thôn và thành thị, làm cho mức sinh hoạt của xã hội ngày càng đắt đỏ và rất khó kiểm soát, gian thương lộng hành trắng trợn. Người dân ở thành thị khốn khổ vì nạn vật giá gia tăng hàng ngày bao nhiêu, thì người dân ở nông thôn càng oằn nặng dưới sự khủng bố và bóc lột ghê rợn của cộng sản bấy nhiêu. Ðóng góp nuôi quân, thuế khóa nặng nề, dân công, sưu địch, con em bị bắt buộc cầm súng trong vùng cộng sản kiểm soát đã là nguyên nhân thúc đẩy đồng bào liều chết bỏ chạy ra vùng quốc gia để được quân đội bảo vệ và chính quyền giúp đỡ.

Hoàn cảnh bi đát của Việt Nam Cộng Hòa trước ngày 19.6.1965 là như vậy. Ðất nước đã bước đến mấp mé bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất có thể sẽ nằm dưới sự thống trị của cộng sản Hà Nội. Nhưng những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một tập thể duy nhất có tổ chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước cơn quốc biến, nên đã đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng nề cứu nguy đất nước và dân tộc. Cho đến gần giữa năm 1965, Hội Ðồng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã loại bỏ được những thế lực phân chia sức mạnh quân đội, cùng chia xẻ trách nhiệm lãnh đạo và điều hành guồng máy quốc gia. Nhưng để tỏ rõ thiện chí và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền Nam, ngày 5.5.1965, Hội Ðồng Quân Lực đã quyết định trao quyền lãnh đạo đấ nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm Quốc Trưởng, Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng cũng chỉ hơn một tháng sau, ngày 11.6.1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc lâm nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con đường tức thời nào đó. Con đường đó, sau những cân nhắc, chính là sức mạnh của Quân Ðội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định trao trả quyền lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bằng tuyên cáo chính thức như sau:

TUYÊN CÁO CỦA QUỐC TRƯỞNG - CHỦ TỊCH HỘI ÐỒNG QUỐC GIA LẬP PHÁP VÀ
THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA


Sau khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước, sau khi đã xét lại và xác nhận rằng : những cơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng toàn thể tướng lãnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng ngày 11.6.1965, chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu theo Quyết Ðịnh số 8 ngày 5.5.1965, Tuyên Cáo số 7 ngày 5.5.1965, Quyết Ðịnh số 5 ngày 16.2.1965, Quyết Ðịnh số 6 ngày 17.2.1965 và Quyết Ðịnh số 4 ngày 16.2.1965.

Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng 1.11.1963.

Làm tại Sài Gòn ngày 11.6.1965
Phan Khắc Sửu
Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa

Phan Huy Quát
Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa

Phạm Xuân Chiểu
Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp


Ngày 12.6.1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những tướng lãnh đang nắm những trọng trách trong Quân Ðội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, Hội Ðồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương Tổng Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết định như sau:

QUYẾT ÐỊNH THÀNH LẬP ỦY BAN LÃNH ÐẠO QUỐC GIA
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa


- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc Trưởng, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 11.6.1965 trao trả trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo Quốc Gia cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

- Chiếu biên bản Ðại Hội Ðồng các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày 12.6.1965.
Các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tư Lệnh các vùng chiến thuật và quân binh chủng đã quyết định:

Quyết Ðịnh:
Ðiều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.

Ðiều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.

Ðiều 3. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.

Ðiều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:

A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
B. Tổng Thư Ký : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ.

Ðiều 5. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.

Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa



Ðó là ngày đánh dấu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng lên gánh vác hai trách nhiệm lớn: bảo vệ nền tự do độc lập của Việt Nam Cộng Hòa, làm tiền đồn ngăn chống làn sóng cộng sản và xây dựng một đất nước lạc hậu nghèo khó vì chiến tranh triền miên với mục đích tiến lên thành một quốc gia phú cường, ngẫng cao đầu sánh vai với cộng đồng thế giới. Ngày 19.6.1965 thành phần Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một buổi lễ ra mắt được tổ chức long trọng ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tuyên thệ trung thành với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước. Từ thời điểm đó, ngày 19.6 được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một chương mới của cuộc chiến đấu chống đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Miền Nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng hòa là thành phần gồng gánh trách nhiệm lãnh đạo đất nước, xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, bình định những mầm móng nằm vùng bạo loạn, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống cơn sóng xâm lăng cuồng sát của đạo quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau khi đắc cử Tổng Thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm hàng năm ngày Quân Lực 19.6 với những cuộc diễn binh của tất cả các đơn vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để biểu dương sức mạnh và ý chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống xâm lược cộng sản từ phương Bắc.

(Ngày 19.1.2004, cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, người từng một thời lái máy bay oanh tạc những cơ sở tàng trữ vật chất dành cho cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam ở Miền Bắc, người từng tuyên bố tử thủ Miền Nam trong những ngày cuối cùng của tháng 4.1975 ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tự động lìa bỏ hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nộp đơn xin cộng sản Hà Nội khoan hồng cho ông ta được phép về Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ đã nhục nhã quỳ gối viết những hàng chữ ô uế trong lá đơn xin chiếu khán vào Việt Nam, thể theo những điều kiện của cộng sản Hà Nội. Kỳ đã kính cẩn và khép nép ký cái tên tầm thường của mình dưới huy hiệu cờ máu của cộng sản, mặc nhiên chối bỏ cái quá khứ oanh liệt được làm người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ giờ phút đó, Nguyễn Cao Kỳ, con người một thời từng thốt lời ngạo nghễ với giặc cộng và cả với đồng minh, giờ đây đã nhận chịu sự “khoan hồng, nhân đạo” của giặc một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Còn nhớ ngày xưa trong những lần Bắc phạt trở về, chỗ ngực chiếc áo bay màu đen của ông Kỳ vàng óng Lá Quốc Kỳ Vàng mà ông rất hãnh diện mang trên đó, thì ngay nay Kỳ đã cúc cung cúi đầu quy phục lá cờ đỏ, biểu tượng của diệt chủng và diệt dân tộc của cộng sản Hà Nội, bằng một thái độ rất ươn hèn rất không tương xứng với vị thế của một người cựu Tướng chỉ huy toàn Miền Nam. Với ảo tưởng rằng sẽ nhận được những cái hôn thắm tình “hữu nghị” và rất “anh em” của bọn cộng sản Hà Nội, Kỳ xênh xang áo gấm về nước. Thật ô nhục, với thân phận là người cao nhất nước của năm 1965 trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, thì đáng lẽ ít nhất gã thủ tướng của bạo quyền Hà Nội là Phan Văn Khải sẽ ra tận cầu thang máy bay hôn lên cái trán bóng mỡ và lên hai đôi gò má dầy da của Kỳđể tỏ rõ tinh thần “hòa giải hòa hợp” giữa riêng bọn chúng và chỉ mỗi bọn chúng với nhau, thế mà chỉ lèo tèo có một gã gọi là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc và một gã thành ủy Sài Gòn.

Cộng sản thường có lối đặt chữ rất mù mờ bất thành câu. Mặt Trận Tổ Quốc là mặt trận gì, nếu phải đặt cho tròn câu với đầy đủ danh từ và động từ, thì phải là Mặt Trận Tổ Quốc Ðứng Lên hay Ngồi Xuống hoặc Giải Phóng gì đó, Mặt Trận Tổ Quốc khơi khơi là thế nào ? Như vậy người ta thấy ngay nó là một cái mặt trận không làm gì cả, không ra gì cả, từ đó suy ra rằng gã chủ tịch chỉ là một cái con người rơm lúc lắc theo những cơn gió ngoài đồng. Ðưa một cái hình nộm hữu danh vô thực, vô quyền và không giữ vị trí tối cao nào trong hệ thống tổ chức cộng sản, Hà Nội đã trịch thượng gởi một cái thông điệp đến Nguyễn Cao Kỳ, mà chúng ta có thể hiểu như sau: “Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải và Trần Ðức Lương sẽ không bao giờ hạ mình xuống ngang hàng với gã hàng thần lơ láo Nguyễn Cao Kỳ, dù là chỉ để ban cho một cái vỗ vai khen ngợi, thì đừng có mà mơ tưởng đến những cái hôn của chúng và đôi cánh tay giang ra ôm ấp trong tư thế “hòa hợp hòa giải”. Lại càng khó có thể được ngồi gác chân trong những bộ salon đắt tiền ở Bắc Bộ Phủ bàn chuyện đại sự với cộng sản”. Ðó là một cách làm nhục đối phương một cách khá là trắng trợn và rõ ràng của Hà Nội, Nguyễn Cao Kỳ đủ thông minh để biết điều đó và đủ hèn để cúi đầu im lặng leo lên máy bay trở về Mỹ quốc, không kèn và không trống.

Từ nay, những nhà viết sử đã có thể thêm vào đằng sau những Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Mạc Ðăng Dung, Lê Chiêu Thống cái tên Nguyễn Cao Kỳ. Còn đối với bè lũ cộng sản Hà Nội:

- Chừng nào mà chúng chưa tự trói mình quỳ gối cúi xin dân tộc tha thứ cho những tội ác tày trời của chúng.

- Ngày nào mà nhân phẩm người phụ nữ còn bị chà đạp, hàng trăm ngàn cô gái còn bị bán khắp thế giới làm nô lệ tình dục.

- Chừng nào mà hàng triệu trẻ em nghèo còn thất học và vẫn lang thang khắp đầu đường xó chợ.

- Ngày nào mà người công nhân Việt Nam còn bị bọn chủ ngoại quốc hành hạ, xúc phạm danh dự và thân thể.

- Chừng nào mà những nghĩa trang của những tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn bị san bằng và hủy diệt, những người chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng Hòa còn bị chà đạp nhân phẩm và bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.

- Ngày nào mà dân tộc Việt Nam không được hoàn toàn tự do bày tỏ chính kiến khác biệt, niềm tin tôn giáo, tín đồ và những nhà lãnh đạo tôn giáo còn bị bách hại, giam cầm.

Và trên tất cả, chừng nào mà dân tộc Việt Nam vẫn chưa được cho sống như con người đúng nghĩa với những quyền lợi căn bản.

Thì ngày ấy cộng sản Hà Nội đừng có ảo tưởng mơ mộng cái gọi là hòa hợp hòa giải. Chúng chỉ có hai chọn lựa. Thứ nhất, tự nguyện trao trả đất nước lại cho dân tộc để có thể được cứu xét tha thứ. Thứ hai, dọn mình chờ ngày toàn dân đứng lên lật đổ chúng, lúc đó, xin được báo trước và cảnh cáo cho chúng biết, đến sắt thép cũng phải nát tan thành tro bụi dưới cơn thịnh nộ của trời và người).

Với sự trợ giúp của các nước Ðồng Minh, trong đó phần đóng góp chính yếu đến từ Hoa Kỳ từ sau năm 1954, QLVNCH đã dần lớn mạnh, không những đủ khả năng chận đứng đà xâm lăng cuồng bạo của binh đội cộng sản Bắc Việt, mà còn đánh cho bọn chúng tan tành thành từng mảnh vụn trong những chiến thắng lừng danh thế giới như Mậu Thân 1968, chiến dịch hành quân sang Kampuchea đập nát những hang ổ kho tàng tiếp liệu cộng quân năm 1970. Trong cuộc hành quân sang Hạ Lào, chiến dịch Lam Sơn 719, mặc dù bị báo chí và truyền thông Hoa Kỳ cũng như nằm vùng cộng sản tiết lộ bí mật, QLVNCH ngay từ đầu đã ở trong thế hạ phong nhưng vẫn đánh thiệt hại rất nặng lực lượng cộng quân. Chiến thắng lừng lẫy nhất mà đã làm cho toàn thế giới phải cúi đầu ngưỡng phục, kể cả giới truyền thông báo chí phản chiến và thân cộng cũng phải xấu hổ gục đầu công nhận tính chất xâm lược rõ ràng của cộng sản Hà Nội và tinh thần chiến đấu dũng mãnh của QLVNCH. Ðó là cuộc chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. QLVNCH đã để lại trong lịch sử Việt Nam trang sử chiến đấu chói lọi nhất, thiêu cháy huyền thoại Ðiện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp. Sau cơn thảm bại mùa hè 1972 nhục nhã, Giáp bị cách chức.

QLVNCH chiến đấu trong nỗi cô đơn cay cực mà chưa từng có một đội quân nào trên thế giới đã trải qua hoàn cảnh ngặt nghèo tương tự. Vừa phải đổ máu xương ngăn chống cộng sản ở phía trước mặt mà còn phải hứng chịu những vết đâm lút sâu của những thế lực bạn bè từ phía sau lưng và sự hững hờ từ phía hậu phương. Người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa bị trói tay không cho đánh, mặc dù chỉ chiến đấu để tự vệ, bảo vệ làng xóm. Chính họ đã hy sinh mạng sống để cho dân tộc được sống và được hạnh phúc. Sự dàn xếp của những thế lực cộng sản quốc tế và tư bản đã đưa đến ngày tang thương 30.4.1975, QLVNCH một lần nữa bị buộc phải hoàn toàn buông súng. Bọn cộng sản tiểu nhân đắc chí ngổ ngáo tiến vào chiếm lấy Việt Nam Cộng Hòa, ngông nghênh tuyên bố đại thắng, thực hiện sách lược sĩ nhục lăng mạ và đày ải những người chiến binh QLVNCH và vợ con gia đình của họ. Nhưng thật sự có phải cộng sản Bắc Việt đã chiến thắng hay không ? Sau hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày 30.4.1975, giờ đây mọi góc cạnh của sự thật đã được phơi bày dưới ánh sáng của mặt trời. Chúng ta khẳng định mạnh mẽ QLVNCH không hề thua và cộng sản không hề thắng trong trận chiến đấu cuối cùng ngày 30.4.1975. Sự thắng thua chỉ được phân định khi hai lực lượng cùng đối mặt chiến đấu giữa hai chiến tuyến. Hai võ sĩ so găng trên võ đài, một võ sĩ bị trói tay chân và với sự đồng tình của ban trọng tài đã bị võ sĩ kia đánh đập rồi tự đưa tay tuyên bố chiến thắng và tha hồ lăng mạ sĩ nhục đối phương. Cuộc thắng thua còn chưa được phân định khi viên đạn cuối cùng còn chưa được bắn ra khỏi nòng súng.

Giờ đây, sau gần ba mươi năm chứng kiến những tội ác ghê tởm hãi hùng của cộng sản Hà Nội bủa lên đầu chính dân tộc của chúng, công luận thế giới đã khẳng định chế độ cộng sản là một cái quái thai kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại và cần phải hủy diệt nó. Ngọn gió đã đổi chiều thuận lợi cho QLVNCH. Hệ thống truyền thông và báo chí ngoại quốc từng một thời ngày xưa góp tay bôi nhọ làm nhục người chiến sĩ VNCH, ngày nay đã hồi phục danh dự cho QLVNCH, biểu dương tinh thần chiến đấu và chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng thì những giá trị nhân bản thực sự của người lính Việt Nam Cộng Hòa đã được thế giới thừa nhận và tôn vinh. Những nắm xương khô đang mục rã theo với thời gian nghiệt ngã của 300 ngàn tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm câm nín u uất dưới những nghĩa trang hoang phế điêu tàn, hay ở những chống rừng sâu núi thẳm, cùng với nửa triệu chiến sĩ thương phế mà phần lớn còn sống lây lất và khắc khoải bên kia bờ Thái Bình Dương, tất cả những người anh hùng vĩ đại đó giờ đây đã được tôn vinh. Ðiều mà những người còn sống, những người còn lành lặn thân xác phải làm là sẽ cùng nhau tìm cách cắm lên bia mộ các anh những nén hương của lòng tri ân với những giọt nước mắt tiếc thương, cùng nhau gởi về cho các anh thương phế chút lòng của những người đồng đội mà ngày xưa từng kiêu hãnh đứng chung dưới lá Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để các anh còn tiếp tục nuôi dưỡng một niềm tin. Rồi sẽ có một ngày, cơn thịnh nộ của đất trời và của toàn dân tộc Việt Nam sẽ như con sóng thần biển Ðông cuốn xô đi những tàn tích của cái ác.

Chúng ta cũng nghiêng mình trước Bức Tường Ðá Ðen ở Washington D.C, tri ân hơn 58,000 chiến sĩ Hoa Kỳ trận vong, những người bạn đã từng sát cánh chia sẽ nỗi cơ cực và chết chóc của chiến tranh với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì nền tự do của đất nước Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta tri ân và vinh danh 300,000 chiến binh thương phế Hoa Kỳ đã bỏ lại một phần thân thể của các anh trên một đất nước thật quá xa xôi để trở về nhận chịu sự thờ ơ lãnh đạm của chính người dân Mỹ, cùng mang mễn những chứng bệnh tinh thần trầm kha. Giờ đây thì anh linh của tất cả những người lính trận vong Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể đi về phía cõi vĩnh hằng với lòng thanh thản, những chiến sĩ thương binh Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể thể ngẫng cao đầu cười nửa miệng trên những đống gạch đổ nát ngỗn ngang của bức tường thành Bá Linh và những mảnh vụn của cái quái thai chủ nghĩa cộng sản. Chính là các anh, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và người lính Quân Lực Hoa Kỳ đã là nỗ lực chánh hủy diệt cái ác mệnh danh là chủ nghĩa cộng sản đó. Chúng ta có thể xác quyết một điều là, ngày nào mà người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn tập họp, đoàn kết đứng chung dưới lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, thì ngày đó cộng sản Hà Nội còn rất run sợ, ngày ăn không thấy ngon, đêm ngủ không được yên giấc. Chúng phải hiểu một điều đơn giản nhưng rất thật là, cho dù chúng có nặn cái bộ óc “trí tuệ” của loài Vượn đến thế nào để cho ra bao nhiêu cái nghị quyết nhắm vào người Việt hải ngoại và Tập Thể người lính QLVNCH, thì cũng sẽ hoàn toàn không ăn được cái giải gì, giống như những cú đánh mất hút vào cõi hư vô. Chúng chỉ thắng được chúng ta ngày 30.4.1975, khi chúng ta bị buộc phải buông súng mà thôi. Ba mươi năm trước, cộng sản Hà Nội cậy có súng AK để đánh đập, hạ nhục, giết chóc những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn vũ khí trong những trại tù khắc nghiệt và dã man của chúng. Ngày nay, ba mươi bốn năm sau, tuy rằng trong tay người lính chúng ta không còn cây súng M 16, nhưng chúng ta có rất nhiều sức mạnh mà cộng sản Hà Nội hằng run sợ.

Thứ nhất, sự phẫn nộ của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hàng trăm ngàn người lính đã ra được đến bến bờ tự do, dù họ không còn vũ khí, nhưng mỗi trái tim bất khuất của các anh chính là thứ vũ khí sắc bén nhất và hữu hiệu nhất, những trái tim đó đã kết nên thành một bức tường cứng rắn. Ba mươi năm nay, cộng sản đã hằng bắn phá vào bức tường ấy, chỉ để thấy rằng chúng đã một lần nữa chiến bại. Tập Thể Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn luôn là lực lượng duy nhất đối kháng và ngăn chống cực lực mọi cuộc tấn công của cộng sản, dù là bằng bất cứ hình thức nào.

Thứ hai, cuộc chiến đấu bằng cây viết của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản từng tuyên án: “Một nhà văn “ngụy” bằng mười sư đoàn tác chiến”. Ngày nay, cây viết của những người lính đã trở thành cây súng M 16 bắn những giọt mực ngạo nghễ và thách thức vào mặt cộng sản Hà Nội, ngòi bút xé toang bức màn đen tối của giả dối và tàn bạo để đưa ra trước công luận thế giới và lịch sử sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản quốc tế lên Miền Nam và cuộc chiến đấu bảo quốc kiệt liệt của quân dân Miền Nam.

Thứ ba, chiến thắng vẻ vang chấn động cả thế giới của người Việt hải ngoại qua sự kiện vừa kỳ lạ lẫn kỳ diệu: Lá Quốc Kỳ Vàng Ðại Nghĩa Ba Sọc Ðỏ hiện nay đã phất phới, ngạo nghễ tung bay ở nhiều tiểu bang, quận hạt, thành phố và trong nhiều trường đại học khắp nước Mỹ. Ðó há chẳng phải là một dấu hiệu, một sự thừa nhận chân thành của người Mỹ, rằng chỉ có Lá Cờ Vàng Việt Nam mới là biểu tượng của chính khí dân tộc Việt Nam, là biểu trưng của cuộc chiến đấu quật cường của một dân tộc nhỏ bé chỉ có gần 18 triệu người mà đã anh dũng ngăn chống một đại khối cộng sản quốc tế với dân số hơn 1 tỉ người. Không chỉ ở Hoa Kỳ, mà gần như trên toàn thế giới, Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hằng năm tung bay trên cột cờ thị chính của những thành phố lớn trong ngày 30.4. Ðó há chẳng phải là sự ghê tởm và chối bỏ chủ thuyết cộng sản và lá cờ máu tanh hôi của bè bọn cộng sản Hà Nội của lương tâm thế giới hay sao.

Ngày Quân Lực 19.6 năm nay có nhiều ý nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu sự bắt đầu hồi sinh của QLVNCH và của niềm tin chính nghĩa quốc qua cuộc đọ sức gay go giữa cái Thiện và cái Ác. Ngày tàn của bọn cộng sản Hà Nội không còn bao xa nữa. Bên trong cái vỏ bọc hào nhoáng phù du hiện tại mà bọn cộng sản tô vẻ ở quê nhà, chỉ là một cái ruột rỗng tuếch mục nát chờ giờ sụp đổ. Với sự tập họp của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thể hiện qua sự đoàn kết cao độ trong Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại, kết hợp với những phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người và quyền tự do tín ngưỡng ngày càng sôi sục ở quốc ngoại và quốc nội, dân tộc Việt Nam có quyền hy vọng sẽ có nhiều chiến thắng khác liên tục và lừng lẫy hơn, để cuối cùng lật đổ được bè lũ bạo quyền Hà Nội.

Anh linh của tiền nhân, của những vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, các Trung Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn Trưởng, sĩ quan và các chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân xin hãy hiển linh thương xót phù trì cho dân tộc Việt Nam và QLVNCH có được nhiều sức mạnh đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản, đem ánh sáng công chính và hạnh phúc trở lại trên khắp mọi miền đất nước, ném bọn chúng vào cõi sâu thẳm tối tăm nhất và đời đời của địa ngục.

Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm


Phạm Phong Dinh


_______________________________________

 

Ngày Quân Lực
Bùi đức Lạc


LTG - Bài này đã được tác giả viết lần đầu năm 1987, đăng trên tuần báo Chuông Việt dưới bút hiệu Chính Nhân, nay được hoàn chỉnh lại, với hy vọng không làm phiền lòng người đọc.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được chính thức khai sinh vào những ngày tháng cuối năm 1954, sau ngày 20-7-1954, tức là ngày Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Cộng Sản Việt Nam. Cho mãi tới ngày 1-12-1954, các cấp chỉ huy Việt Nam lần lượt nhận lãnh quyền chỉ huy các Quân Binh Chủng (chủ quyền) từ tay người Pháp; Thiếu Tướng Nguyễn văn Vỹ được bổ nhiệm làm Tổng Thanh Tra Quân Ðội, thay thế Thiếu Tướng Alessandri; Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ được bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh; Nhưng mãi tới ngày 29 tháng 12 năm 1954 mới có hiệp ước chính thức chấm dứt chế độ Quốc Gia Liên Kết “Quadripartisme” (chế độ này được khai sinh từ ngày quân Pháp theo chân Ðồng Minh chiếm lại Ðông Dương sau Ðệ Nhị Thế Chiến) và cũng hủy bỏ hiệp định “Pau” năm 1950. Kể từ lúc đó các cơ sở hành chánh, cảnh sát, công an và các cơ quan tư pháp cũng được trao trả lại chủ quyền cho người Việt Nam.

Cũng từ ngày 29-12-1954 Bộ Tham Mưu hỗn hợp Việt Pháp được cải tổ và cải danh thành Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, vào đầu năm 1956 các Bộ Tư Lệnh Quân khu được cải danh thành Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn; vào đầu năm 1958 các đơn vị Sư Ðoàn Khinh Chiến, Dã Chiến cũng dần dà được canh tân thành các Sư Ðoàn Bộ Binh; vào cuối năm 1965 các Lữ Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến, Liên Ðoàn Nhảy Dù cũng theo đà canh tân Quân Ðội, được bành trướng thành các Sư Ðoàn Tổng Trừ Bị; các Ðại Ðội Biệt Ðộng Quân được thành lập thành Tiểu Ðoàn, Liên Ðoàn, rồi Sư Ðoàn; các đơn vị Thiết Giáp cấp Chi Ðội, Chi Ðoàn được canh tân, hiện đại hóa bằng những thiết giáp tân tiến và tăng trưởng thành các Thiết Ðoàn; các Chiến Hạm Hải Quân cũ kỹ do quân đội Pháp để lại được thay thế bằng những chiến hạm tân tiến hơn, đồng thời ào ạt nhận thêm chiến hạm mới các phòng Hải Quân bên cạnh Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn được thành lập thành các Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng; các đơn vị Không Quân từ những khu trục cơ cánh quạt được thay thế bằng những Phản Lực cơ siêu âm rồi các Phi Ðoàn, Sư Ðoàn Không Quân ra đời; các binh chủng, nha sở cũng được trang bị hiện đại hơn và tăng cường quân số cho phù hợp với nhu cầu của chiến trường và nhu cầu chỉ huy, liên lạc, tiếp vận. Chính vì vậy mà một vị Tướng lãnh tên tuổi ngoại Quốc (chúng ta thường có tinh thần vọng ngoại) đã phải tuyên bố xác nhận rằng : Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là một quân lực tinh nhuệ và hùng hậu đứng vào hàng thứ năm trên thế giới.

Cũng từ năm đó, năm 1960 là năm mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu chao đảo theo tham vọng của một số các cấp chỉ huy, Quân Lực đã bị lợi dụng bởi tham vọng cá nhân, có khi còn bị lèo lái theo tướng số, bói toán và tử vi nữa.

Năm 1963 cơn bão loạn chính trị, được khơi dậy bằng những cuộc xuống đường, của học sinh, sinh viên, Phật Tử và còn một điều quyết định là theo dấu chỉ của đèn xanh Quốc Tế. Trung Tướng Dương Văn Minh, số đông các tướng lãnh và một số sĩ quan trung cấp đang nắm quyền chỉ huy các đơn vị chung quanh Thủ Ðô Sài Gòn đã lật đổ chính phủ dân cử ngày 1-11-1963; Kết quả là hai anh em Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã bị thảm sát trên thiết vận xa M113 ngay trong lòng Thủ Ðô Sài Gòn-Chợ Lớn.

Ngày 18 tháng 11 năm 1963, Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi và Trung Tá Vương Văn Ðông sau ba năm bôn ba nước ngoài vì đảo chánh không thành trở về nước.

Ngày 23 tháng 11 năm 1963, Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy bị ám sát tại Dallas tiểu bang Texas, Phó Tổng Thống L. Johnson lên thay.

Hơn một tháng say mê trên chiến thắng (Cách Mạng) một Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng được thành lập do Trung Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch, các ủy viên gồm các Trung Tướng Trần Văn Ðôn, Tôn Thất Ðính, Trần Thiện Khiêm, Phạm Xuân Chiểu, Lê Văn Kim, Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân, Trần Văn Minh; các Thiếu Tướng Ðỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có; Ðồng thời Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng cũng chỉ định Ðốc Phủ Sứ Nguyễn Ngọc Thơ thành lập chính phủ; (Phó Tổng Thống của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, người đã đánh lừa Ba Cụt, hứa nếu về đầu hàng chính phủ, sẽ được khoan hồng nhưng khi Ba Cụt về đầu hàng, lại cho một toán quân phục kích bắt sống Ba Cụt rồi đem xử tử). Nhưng thay vì mở rộng cho các đảng phái tham gia chính quyền, thì chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ lại là một chính phủ bè phái, chia rẽ, rõ rệt, nhất là sự hiện diện của nhóm sĩ quan Ðại Việt, như Ðại Tá Ðỗ Kiến Nhiễu Đổng lý Văn phòng Quốc Trưởng Dương Văn Minh, Ðại Tá Nhan Minh Trang Chánh Võ Phòng Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ, Ðại Tá Nguyễn Văn Quang Giám Đốc Nha An Ninh Quân Ðội, Ðại Tá Dương Hiếu Nghĩa Chỉ huy Trưởng Thiết Giáp Binh, Ðại Tá Huỳnh Văn Tồn Tỉnh trưởng Gia Ðịnh, nhóm này chủ trương lật đổ chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ và mời lãnh tụ Ðại Việt là Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, đang sống lưu vong bên Pháp về lập chính phủ.

Nhưng âm mưu của nhóm này chưa kịp thi hành, thì bị Trung Tướng Trần Thiện Khiêm tư lệnh Quân Ðoàn III phối hợp cùng Trung Tướng Nguyễn Khánh tư lệnh Quân Ðoàn I, Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi tư lệnh phó Quân Ðoàn I, dùng ưu thế trong Quân Ðội dập tắt, trong phiên họp ngày 12-12-1963 tại Sài Gòn, quyết định ngày 31-1-1964 giải tán chính phủ, của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ, quan trọng hơn nữa là trong phiên họp này, quyết định bắt giam tất cả các Tướng Lãnh chủ mưu cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, vì lý do nhóm này chủ trương Trung Lập, (cho đến ngày hôm nay cũng chưa có bằng cớ xác thực), ỡm ờ vẫn giữ Trung Tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu cuộc đảo chánh ở lại làm Tổng Thống, Trung Tướng Nguyễn Khánh làm Thủ Tướng, thành lập hội đồng Nhân Sĩ gồm 60 vị, Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng đổi tên thành, Hội Ðồng Quân Ðội Cách Mạng, Trung Tướng Nguyễn Khánh làm chủ tịch thay thế Trung Tướng Dương văn Minh, rồi đến Tam Ðầu Chế (bù nhìn). Tướng Nguyễn Khánh thao túng sân khấu chính trị, làm cho Quân Ðội hoang mang, Dân Chúng hoài nghi, và nhìn tất cả các tuồng diễn trên sân khấu cải lương chính trị, tại Sài Gòn lúc bấy giờ, như một màn bi kịch của thời đại.

Tướng Khánh làm nhiều trò rất ngoạn mục, như hiến chương Vũng Tầu, Tam Ðầu Chế (Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu) phong cho ông Trần Văn Hương làm thủ tướng và một Thượng Hội Ðồng Quốc Gia làm cố vấn (bù nhìn) cho chính phủ, vì Thượng Hội Ðồng Quốc Gia không chịu làm bù nhìn, cho nên Tướng Nguyễn Khánh bắt giam các giới chức trong Thượng Hội Ðồng này gồm cả nhà cách mạng Nguyễn Văn Lực (thân phụ của phi công Nguyễn Văn Cử), rồi đầy các nhân sĩ trong Thượng Hội Ðồng Quốc Gia lên cao nguyên Trung Phần.

Ngày 7 tháng 6 năm 1964, Công Giáo biểu tình chống chính phủ rất qui mô tại công trường Lam Sơn.

Ngày 2 tháng 8 năm 1964, chiến hạm Maddox của Hoa Kỳ tuần tiễu ở vịnh Bắc Việt bị tầu tuần tiễu Bắc Viết phóng ngư lôi tấn công, ba ngày sau tầu Mỹ lại bị tấn công, Phi cơ Mỹ trả đũa oanh tạc các tầu chiến và các vị trí quân sư tại ven biển Bắc Việt.

Ngày 26 tháng 8 năm 1964, ẩu đả giữa hai nhóm nhỏ Phật Giáo và Thiên Chúa giáo tại khu Thanh Bồ Ðà Nẵng làm 11 người chết, 42 người bị thương, một số nhà bị đốt. Tại Sài Gòn cũng bùng lên tình trạng Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo kình chống nhau, Linh Mục Hồ Văn Vui và Thượng Tọa Thích Tuệ Ðăng phải ra tận nơi biểu tình của hai bên đang đối đầu nhau để hòa giải mới ổn định được tình hình, có tin cho rằng các cuộc chống chọi giữa Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo là do Cộng Sản giật dây, cả hai bên chỉ vì thiếu suy xét, chút xíu trở thành đại họa cho đất nước lúc bấy giờ, bài học này ngày nay vẫn còn nóng hổi.

Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Tướng Nguyễn Khánh lại chỉ định Thượng Hội Ðồng Quốc Gia mới, với nhiệm vụ triệu tập Quốc Dân Ðại Hội, soạn thảo Hiến Chương, nhưng sau đó lại bị giải tán.

Ngày 13 tháng 9 năm 1964, Ðảng Ðại Việt đảo chánh, do Ðại Tá Huỳnh Văn Tồn Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và Trung Tướng Dương Văn Ðức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV (bên ngoài ai cũng tưởng đây là cuộc đảo chánh do Tướng Ðức chủ mưu, nhưng không phải như vậy, mà sự thật chủ mưu cuộc Ðảo chánh này là do nhóm Sĩ Quan Ðại Việt; Tướng Dương Văn Ðức thuần túy là một quân nhân, ông cương trực thắng thắn nên dễ bị lợi dụng). Tướng Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đang làm Tham Mưu Trưởng liên quân, tại Bộ Tổng Tham Mưu không có quân trong tay nên phải cầu cứu với Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh về Sài Gòn để phản công; Tướng Thi nhờ vào uy tín và sự quen biết với các vị Tư Lệnh hai Binh Chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến cũng như Quân Chủng Không Quân; nên ông đã chỉ huy phản công, dẹp Ðảo chánh thành công rất dễ dàng.

Ngày 1 tháng 11 năm 1964, ông Trần văn Hương được đề cử làm Thủ Tướng chánh phủ, nhưng không được bao lâu bị chống đối mạnh mẽ từ khối sinh viên Phật Tử.

Ngày 16 tháng 2 năm 1965, sau hơn ba tháng cầm quyền Thủ Tướng Trần Văn Hương từ chức, rối loạn lại càng rối loạn hơn.

Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Thiếu Tướng Lâm Văn Phát và Ðại Tá Phạm Ngọc Thảo lại làm thêm màn bi kịch đảo chánh trên sân khấu Sài Gòn, nhưng cũng lại bị Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh Quân Ðoàn I phối hợp cùng Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ Tư Lệnh Không Quân dẹp tan, nhân dịp này Tướng Nguyễn Chánh Thi với danh nghĩa là Tư Lệnh Quân Ðoàn Giải Phóng Thủ Ðô, đã yêu cầu Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu giải nhiệm Tướng Nguyễn Khánh, chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, được giao cho Trung Tướng Trần Văn Minh và ép buộc tướng Nguyễn Khánh phải xuất ngoại trị bệnh. (căn bệnh này là căn bệnh truyền nhiễm)

Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Tướng Nguyễn Khánh lên đường lưu vong sau hơn một năm khuấy động,trước khi bước chân lên máy bay ông cầm một nắm đất và tuyên bố: “Tôi đem theo đất nước Việt Nam với tôi và tôi còn trẻ tôi sẽ trở lại đất nước khi có cơ hội” .

Cũng ngày 25 tháng 2 năm 1965, Thủ Tướng Phan Huy Quát thành lập chánh phủ, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu phó Thủ Tướng nhưng lại bị khối Công Giáo biểu tình chống đối, nên chánh phủ Phan Huy Quát phải giải tán sau gần bốn tháng cầm quyền đầy rối loạn, đồng thời Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu cũng nhận thấy ngôi vị của mình không có thực quyền nên đã cùng Thủ Tướng Quát thỏa thuận là nên trao quyền hành điều khiển Quốc Gia lại cho Quân Ðội, sự thực các chính phủ dân sự không còn lối thoát, họ không do dân bầu mà do sự chỉ định, khi lên hay xuống cũng do chỉ định mà thôi, cho nên họ hoàn toàn bất lực, không có một chút uy quyền nào.

Ngày 8 tháng 3 năm 1965, hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Ðà Nẵng, đây là đơn vị đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ chính thức tham chiến tại Việt Nam.

Tới đầu tháng 6 năm 1965, mọi việc đều rõ ràng, trong tình thế rối loạn này, nếu Quân Ðội không nhận lãnh tạm thời điều khiển quốc gia, để tổ chức bầu cử chọn người lãnh đạo quốc gia, thì không một cá nhân hay đảng phái nào có thể đảm nhận vai trò điều khiển Quốc Gia trong giai đoạn nhiễu nhương này được.

Cho nên ngày 6 tháng 6 năm 1965, Hội Ðồng Quân Lực đã nhóm họp khẩn cấp, cuộc họp này hoàn toàn do các Tướng lãnh Việt Nam chủ động, và kết quả là vẫn không bầu được một cơ cấu, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm điều khiển Quốc Gia.

Ngày 11 tháng 6 năm 1965, cuộc họp giữa chính phủ dân sự chỉ định và Hội Ðồng Quân Lực từ 9:00 giờ tối cho đến 3:00 giờ sáng ngày 12 tháng 6; Trong buổi họp này Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát đồng loạt từ chức, giao quyền hành cho Hội Ðồng Quân Lực, mọi người đồng ý chờ quân đội chọn người, sau đó mới chọn ngày bàn giao chính thức, cuộc họp lịch sử này do sự thúc đẩy của Hoa Kỳ nhưng hoàn toàn không chịu áp lực của Hoa Kỳ, chương trình nghị sự hoàn toàn độc lập.

Ngày 12 tháng 6 năm 1965, các vị Tướng Lãnh và những vị có chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn trở lên họp từ 9:00 giờ sáng cho đến 9:00 giờ tối tại Bộ Tư Lệnh Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến, dưới sự canh gác vô cùng cẩn mật; Cuộc họp bàn cãi rất sôi nổi về việc chọn một người ra điều khiển Quốc Gia với danh xưng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, không ai tình nguyện, nên các vị sau đây lần lượt được đề cử:

- Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu
- Trung Tướng Nguyễn Hữu Có
- Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi
- Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ

Lúc đầu Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Có từ chối quyết liệt, sau đó Trung Tướng Thi cũng từ chối cuối cùng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ nhận lãnh, sau cùng đi tới kết quả thành phần lãnh đạo như sau:

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu Tham Mưu Trưởng Liên Quân làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (Quốc Trưởng).

Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ Tư lệnh Không Quân làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ Tướng).

Ðồng thời các Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng được lần lượt thay thế bằng các quân nhân (không có kinh nghiệm về hành chánh và cai quản) và lấy tên là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Tỉnh hay Quận.

Nhưng để có thời gian chuẩn bị thành lập nội các, cho nên đến ngày 19 tháng 6 năm 1965, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương mới chính thức tuyên bố nhận lãnh trách nhiệm lèo lái Quốc Gia và tuyên bố thành phần nội các; cùng quyết định tăng phụ cấp cho binh sĩ; cũng như chọn ngày 19 thang 6 là ngày Quân Lực (Hiện nay tại hải ngoại các cựu Quân Nhân chúng ta phải giữ ngày này là giềng mối để nắm tay nhau, công kích ngày Quân Lực là mục đích tiếp tay cho kẻ thù chung của Dân Tộc, gây chia rẽ trong hàng ngũ Quân Nhân; Cũng như công kích bản Quốc Ca của chúng ta là mục đích gây chia rẽ trong hàng ngũ Quốc Gia, gây xáo trộn trong cuộc sống đầy ưu phiền nghi kỵ, cả hai tình huống quan trọng này, một bên chống một bên thuận là cả Cộng Ðồng Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản phải tan nát khó hàn gắn, bây giờ không phải là lúc bàn đến việc thay đổi điên rồ này, nếu chúng ta suy nghĩ chín chắn thì chúng ta phải đón nhận như trong gia phả vậy, hay giở cũng là của tiền nhân để lại, phải chấp nhận để làm bài học quý giá sau này, tốt hay xấu thì cũng là tấm gương soi để noi theo hay sửa chữa, con cháu chúng ta cần học hỏi trong cả bài học hay cũng như bài học dở, từ cổ chí kim không có một quốc gia nào, hay một vị nguyên thủ nào hoàn hảo cả) .

Năm 1965 cũng chính là năm mà Cộng Sản Việt Nam nhận định rằng: Sau gần hai năm lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm các tướng lãnh đã lo tranh giành quyền lực không chú ý gì đến quyền lợi của Quốc Gia Dân Tộc, không còn chú ý đến nhiệm vụ chính là Hành Quân bảo vệ dân, tiễu trừ Cộng Sản nữa. Nắm cơ hội này chúng đã gửi các Sư Ðoàn Chính Quy ào ạt Nam Tiến với mục đích là thôn tính trọn miền Nam; Nhìn rõ ý đồ đó nên Tổng Thống Hoa Kỳ L. Johnson đã quyết định đổ bộ các đại đơn vị Hoa Kỳ vào tham chiến kịp thời, nếu không QLVNCH với vũ khí lúc đó còn thô sơ (Garant, carbine và đại liên 30 ) khó có thể ngăn cản sự tấn công của đạo quân được trang bị tối tân hơn (AK 47, B40, B41 và hỏa tiễn điều khiển địa địa cũng như địa không). Tuy vậy QLVNCH cũng phản tỉnh sau hai năm mơ màng nên lệnh tổng động viên được ban hành, Thiếu Tướng Bùi Ðình Ðạm cấp thời được bổ nhiệm làm Giám Ðốc Nha Ðộng Viên Bộ Quốc Phòng, để thi hành lệnh Tổng Ðộng Viên, trước tình thế khẩn trương của đất nước, các Quân Binh Chủng cũng được bành trướng chẳng hạn như Lữ Ðoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, cấp tốc được thành lập thành Sư Ðoàn.

Năm 1966 là năm đầu tiên lấy ngày 19-6 là ngày QUÂN LỰC; Một cuộc diễn binh rất quy mô trên đường Trần Hưng Ðạo Thành Phố Sài Gòn Chợ Lớn, dưới đất các đoàn quân anh hùng lần lượt đi qua khán đài, trên trời các phi cơ đủ loại biểu diễn ngoạn mục mang lại niềm tin ở sức mạnh của Quân Ðội cho dân chúng, nhất là sau một năm tình hình chính trị và quân sự được ổn định dân chúng lại càng an lòng hơn.

Kể từ đó QLVNCH đã hoạt động tích cực bảo vệ thôn ấp, hành quân truy diệt địch đến tận sào huyệt của chúng, những vùng được coi là Mật Khu An Toàn của Cộng Sản, đều bị chúng ta giẫm nát, những trận đánh để đời như Pleime, Ðức Cơ, đồi 1416 tại Kontum v.v... tới nay đã đi vào quân sử hào hùng của chúng ta, không những vậy QLVNCH còn vượt biên sang Campuchia, Lào để san bằng các cơ sở chỉ huy đầu não và hậu cần tiếp vận của chúng, chúng ta đã bẻ gẫy cuộc chiến lừa lọc tết Mậu Thân, tổng tấn công Mùa Hè 1972. Nhưng sau cùng chúng ta phải gẫy súng, chúng ta bị trói tay vì súng đạn, nhiên liệu bị cắt giảm 90%, không còn được tiếp tế, bổ sung, không có các cơ phận tốt để thay thế những cơ phận hư hỏng; cuộc chiến đương nhiên phải kết thúc. Hai võ sĩ lâm trận, một võ sĩ được tự do hoạt động, còn một bên bị trói tay, chúng ta thấy ngay bên nào phải thua!

Ngày 19-6-1975, không một nơi nào trên trái đất này tổ chức ngày Quân Lực cho QLVNCH, nhưng chắc chắn nó được âm thầm tưởng nhớ trong trí trong tâm của các quân nhân còn đang bàng hoàng trước cơn đại nạn của đất nước; để rồi người may mắn phiêu bạt khắp Năm Châu, người kém may mắn đang trong các lao tù Cộng Sản, người kiên cường bất Khuất đang hiên ngang chiến đấu trong lòng đất mẹ Việt Nam. Nhưng dù ở phương trời nào, hoàn cảnh nào, các quân nhân QLVNCH lúc nào cũng một lòng son sắt quyết tâm sẽ tổ chức ngày Quân Lực rạng rỡ trên quê hương Việt Nam Mến Yêu.

Trên một phần tư thế kỷ, biết bao nhiêu đau thương chồng chất, biết bao nhiêu khổ ải cực hình, biết bao nhiêu tan vỡ tận cùng, mang theo những chia lìa ngăn cách để lại cho chúng ta những khắc khoải mong chờ, ngày quang phục quê hương, mục tiêu hợp quần những người cựu Quân Nhân QLVNCH chưa nắm trọn trong tay, vì chúng ta còn lấn cấn trong những thủ đoạn ma mãnh, của nhiều nhóm, mưu cầu lợi ích riêng tư cho một đơn vị hay cho một đoàn thể, mà chưa nhận điện được những lợi ích chung cho cộng đồng cho xứ sở!!! kèm theo chúng ta đang bị quân thù cài người đánh phá, vì vậy khối Quân Nhân phải cực kỳ sáng suốt, mới nhận rõ được quân thù, nếu chúng ta không nắm tay cùng nhau, chúng ta sẽ bị lịch sử lên án nặng nề, về những việc làm hiện tại của chúng ta, chúng ta thật sự thua trận giặc vừa qua, để lại một dân tộc vốn kiêu hùng, nhưng trớ trêu thay đang làm nô lệ cho chính những người cùng huyết tộc, hơn thế nữa tiếp tục tới ngày hôm nay, chúng ta đang thua trận giặc tàn khốc hơn đó là trận giặc làm tay sai, trận giặc chia rẽ do quân thù điều khiển, và bị xúi bẩy bởi những người không một ngày cầm súng; hoặc còn tệ hại hơn nữa, một số không nhỏ những người trong hàng ngũ cựu quân nhân, đang làm tay sai cho giặc, đang ra sức đánh phá mọi mặt, bôi nhọ những người có tâm huyết, chính họ là những người đã chỉ điểm cho quân thù tiêu diệt chúng ta, để chúng ta phải mang tiếng chung là đang làm nhơ bộ chinh y của chính chúng ta, đau đớn thay!

Xin Hồn Thiêng Sông Núi xin tinh anh của Dòng Giống Tiên Rồng dẫn dắt con cháu Lạc Hồng biết tương nhượng nhau, xích lại gần nhau và biết cùng nhau nhìn về quê hương bên kia bờ đại dương, cùng đau trong niềm đau chung của Dân Tộc.

Bùi đức lạc

 

Ý kiến cho bài đọc xin nhấn vào đây => (Ý NGHĨA NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19/6)

Rate this item
(1 Vote)