Dẫn Nhập
Để thi hành Hiệp Định Ba Lê (ký ngày 27/01/1973), Ủy Ban Quân Sự (UBQS) 4 bên rồi 2 bên được hình thành sau ngày 28/03/1973 để bàn về vấn đề thực thi Hiệp Định.
Tác giả Phan Nhật Nam (PNN), nguyên cựu Đại Úy Nhảy Dù được phái đoàn VNCH trao nhiệm vụ sĩ quan trao trả tù binh với phía cộng sản và ông có mặt trong UBQS này. Sau những kỳ họp với đối phương, ông ghi nhận những sự kiện với nhận định sâu sắc và cay đắng của một chiến sĩ QLVNCH và sách Tù Binh và Hòa Bình (TB&HB) được ra đời sau đó, vào năm 1974.
Được biết, các vị Trưởng đoàn của 3 phía Việt Nam và phía Mỹ, là:
1/ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH): Trung Tướng Ngô Du, Tướng Dư Quốc Đống, Tướng Phan Hòa Hiệp, Tướng Phạm Quốc Thuần, Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, Đại Tá Trần Vĩnh Đắc, Đại Úy Phan Nhật Nam (PNN), Đại Úy Lân thông dịch…,
Cộng Sản Bắc Việt (CSBV): Thiếu Tướng Hoàng Anh Tuấn, Thiếu Tướng Lê Quang Hòa, Trung Tá Trần Tấn, Thiếu Tá Nguyễn An Giang…,
2/ Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CP/LTCHMNVN), Mặt Trận Giải Phóng (MTGP): Trung Tướng Trần Văn Trà, Thiếu Tướng Hoàng Anh Tuấn, Đại Tá Võ Đông Giang, Đại Tá Lê Trực, Trung Tá Tuệ…,
3/ Phía Mỹ: Trung Tướng Gilbert H. Woodard, Đại Tá Clyde R. Russell.
Và Ủy Ban Quốc Tế Giám Sát và Kiểm Soát Đình Chiến (ICCS) gồm Canada, Indonesia, Ba lan và Hungary. Một thời gian sau, Canada rút lui vì nhận thấy phái đoàn MTGP không trung thực. Phái đoàn Iran thay Canada.
Trong công tác giám sát, phái đoàn Ba Lan và Hungary luôn có thái độ nghiêng về phe cộng sản. Còn hai phái đoàn Canada (sau này là Iran) và Indonesia thì giữ vẻ trung trực hơn là thiên vị.
Hai tháng sau ngày hiệp định ký kết, hàng chục ngàn tù binh cộng sản và trên năm ngàn tù binh VNCH dần dần được trao trả tại 6 địa điểm chính, bờ bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị, Đức Phổ (Quảng Ngãi), Hoài Ân (Bình Định), Lộc Ninh, Minh Thạnh (Bình Long), Thiện Ngôn (Tây Ninh) và Đức Nghiệp (Pleiku).
TB & HB xuất bản năm 1974 trong lúc cuộc chiến lấn đất giành dân do CSBV và MTGP phát động đang diễn ra khốc liệt trên 4 Vùng chiến thuật nên sách không được dư luận chú ý.
Sau 30 Tháng 4, 1975, tại Saigon, TB&HB cùng tất cả các sách của PNN (cũng như của một số nhà văn nhà báo quốc gia khác) bị xếp vào “văn hóa Mỹ Ngụy”, “cực kỳ phản động”, có thể dẫn đến tù tội hoặc mất mạng nếu cất dấu.
Được biết, vào khoảng 1987, nhà xuất bản (NXB) Kháng Chiến tại Mỹ tự động chuyển ngữ và xuất bản TB&HB dưới tựa đề “Peace and Prisoners of War – Sad Memory From Vietnam War”.
Những năm sau đó, TB&HB hay P&POW mất biến.
Mãi đến năm 2020, nghĩa là 46 năm sau, Peace and Prisoners of War (bản 1987) lọt vào tầm nhìn của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, ông James Webb, một cựu Thủy Quân Lục Chiến Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam và qua nhà xuất bản (NXB) Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ (US Naval Institute), sách được edited lại và phát hành rộng rãi trên Amazon dưới tên nguyên thủy là Peace and Prisoners of War (P & POW).
Đồng thời TB&HB, bản Việt ngữ, được NXB Sống tái bản với khổ 61/4 X 9 in trên giấy vàng nhạt mỹ thuật, dày 270 trang, gồm 19 Chương trong đó, hai Chương sau cùng, 18 và 19 được tác giả viết thêm tại Mỹ vào năm 1995 và 2020.
Chỉ 270 trang, nhưng sách chứa rất nhiều sự kiện mới lạ với những nhận định sắc bén của tác giả liên quan TB & HB tại bàn hội nghị cũng như tại địa điểm trao trả.
Trong bài tiểu luận này, người viết khai thác bản tiếng Việt do NXB Sống tái bản năm 2020 và chỉ trình bày vài nhận xét liên quan đến thân phận tù binh của VNCH, CSBV và MTGP mà thôi.
Thân Phận Tù Binh
Bản chất lươn lẹo, dối gạt và ù lì của cộng sản trong hội nghị vẫn còn giá trị mà cả thế giới hầu như không quan tâm. Về điểm này, TNS James Webb có nhận định cay đắng: “những quan sát của người viết (PNN) cho đến nay vẫn bị lãng quên trong hầu hết các trang sử về Chiến Tranh Việt Nam” (trg 12).
Khởi sự từ Hiệp Định Ba Lê, phía CSBV và MTGP đã chủ trương dối gạt trong bàn thảo, với ngôn từ xử dụng cho đến việc thi hành nội dung hiệp định. Cộng sản quyết loại bỏ sự kiện có một quân đội miền Bắc xâm lăng miền Nam. Họ chỉ xoáy vào sự xung đột giữa chính phủ VNCH và MTGP. Còn phía Mỹ, đồng minh của miền Nam, vì muốn rút lui trong danh dự, phủi sạch trách nhiệm của một cường quốc, đã tỏ ra nhân nhượng với cộng sản. “A! Hóa ra tất cả đều muốn tránh xa sự thật, tất cả đều muốn bỏ qua sự kiện có một nước Bắc Việt Nam xâm lăng Nam Việt Nam, mọi người đều đồng ý thực hiện một màn dối trá bịp bợm theo khuôn mẫu của Hiệp Định ngưng bắn”, mà giá trị đích thực chỉ là mảnh giấy tráo trở chứng nhận trò bịp lớn của thế kỷ và che dấu sự thật, nỗi đau đớn của người Việt Miền Nam” (trg 81).
Tôi thông cảm với nỗi uất nghẹn của tác giả TB & HB khi chính ông biết rất rõ “đám lính của các Sư Đoàn (Cộng Sản) 324, 325, 308, rặt một lớp người nói tiếng Bắc, dưới hai mươi tuổi, cuồng tín, cuồng sát biến thành ‘người Quảng Trị’ để sẵn sàng đào đường, chùi súng, sửa phi đạo, thiết lập giàn phóng hỏa tiễn trực chỉ vào bờ Nam sông Thạch Hãn?” (trg 83).
Nỗi uất nghẹn đó dâng cao tiệm tiến khi tác giả khám phá trong Nghị Định Ngưng Bắn chứa những dòng chữ xảo trá: “Nhưng trong Văn Bản của Nghị Định, chỉ có 2 loại tù binh được ghi như sau: 1/ Tù binh Hoa Kỳ và quân đội nước ngoài (Quốc gia tham chiếm giúp VNCH). 2/ Tù dân sự nước ngoài thuộc quốc tịch Hoa Kỳ hay của bất cứ nước nào khác (Phi, Úc, Nhật…); và hai loại tù dân – quân sự của miền Nam Việt Nam gồm: Tù do VNCH bắt giữ, và Tù do MTGP bắt giữ!”
“Không có một giòng chữ nào chỉ định những người lính chính quy đã phát xuất từ Bắc Việt theo đường mòn Hồ Chí Minh vào tham chiến tại mặt trận B2 (Trị Thiên), B3 (Ba biên giới). Không có một chữ, nghĩa dù mơ hồ để chỉ những tù nhân quân sự bị bắt tại trận địa, mình xâm câu “Sinh Bắc Tử Nam”, trả lời rõ ràng “Tôi thuộc Sư đoàn 304B tại Thanh Hóa, xâm nhập miền Nam ngày 9/10/1967, tham chiến tại Khe Sanh kể từ ngày 19/1/1968” (trg 99).
Tóm lại, Người Lính VNCH bị bắt trong các trận chiến như Hạ Lào 02/1971, Cục R trên đất Miên 05/1970, Tết Mậu Thân 1968 và mới mẻ hơn hết, cuộc đại chiến Mùa Hè 1972; Tất cả các tù binh QLVNCH đó đều “bị hư vô hóa, vô hiệu hóa và vô tính hóa” qua lý lẽ ngang bướng của cộng sản là “quí vị đánh ở Nam Lào, ở Campuchia, nếu bị bắt là do Pathet Lào, Khmer Đỏ bắt giữ chứ không phải chúng tôi” (trg105).
Nỗi uất nghẹn tiệm tiến cấp số nhân khi PNN vở lẽ: “Không có quân nhân VNCH bị bắt bởi quân đội Bắc Việt!” (trg 99).
Theo chúng tôi, ba Chương 8, 9 và 10 rất quan trọng vì liên hệ đến số phận tù binh chiến tranh, không những của phía VNCH mà cả CSBV và MTGP. Xin đưa ra vài sự kiện:
1/ Con số tù binh CSBV & MTGP do VNCH công bố là 26,058 nhân viên quân sự MTGP (NVQS) trong đó có hang ngàn cán binh CSBV so với con số 5018 NVQS/VNCH bị bắt giữ trong hơn 10 năm chiến tranh. Tù binh trước năm 68 không hề được liệt kê vào danh sách. Thâm hiểm hơn hết, họ không trao trả số quân nhân VNCH bị bắt trong các cuộc hành quân vượt biên với lý luận nêu trong phần ghi chú (trang 99 & 105).
2/ Phía cộng sản không sẵn sàng đủ số người trao trả đúng theo ấn định về địa điểm, ngày giờ mà cố tình trì hoãn cù nhầy ngày nọ tháng kia. Có thể do sự gian lận, hoặc do bọn khát máu đã thủ tiêu những tù nhân bất khuất này.
3/ Từ sự kiện 1 và 2, tác giả PNN kết luận “Còn rất nhiều quân nhân VNCH đang bị giam giữ trong lao tù cộng sản” (trg 100).
Một bất ngờ được phơi bày trong TB&HB là tính ác và sự khát máu của chủ nghĩa cộng sản không những đối với tù binh VNCH mà cả phía họ. Những người tù cộng sản thường xuyên bị theo dõi qua đó, sự hiểm nguy thường trực đe dọa họ. “Một tù binh được ban giám đốc trại gọi lên hỏi chi tiết của nơi sinh. Nếu được trả về trại an lành, anh ta chắc chắn đã nắm được đầu giây của cái chết do chính đồng chí anh thực hiện” (trg 113).
Bị khủng bố cả tinh thần lẫn thể chất nên một tù binh cộng sản nào có ý định hồi chánh trong nhà tù tức là “đã dự cuộc đua với tử thần trong gang tất xít sao” (trg 114). Biết vậy nên khi được trao trả, tù binh cộng sản phải cố vứt bỏ quần áo của VNCH, phải cố tỏ ra quyết tâm trung thành với Đảng và đả đảo “Mỹ Ngụy”! Đã vậy mà chắc gì được yên lòng trong những ngày kế tiếp?!
Chính phủ VNCH phát động phong trào Tân Sinh Hoạt trong các trại tù, tạo điều kiện cho người cộng sản nhận thức rõ hiện trạng của miền Nam để giúp họ có quyết định sinh tử khi chọn lựa đứng về phía nào. Phong trào đạt kết quả lớn, hơn 10,000 tù binh xin hồi chánh.
Uất nghẹn thay, phía cộng sản và các phái đoàn Hung, Ba Lan đã được mớm trước, nên tìm mọi cách không công nhận trường hợp hồi chánh, vì không ghi trong Nghị Định!
Hình ảnh tương phản giữa hai tù binh chiến tranh trong các cuộc trao trả khả dĩ giúp người đọc nhận thức được bản chất của hai chế độ: Người tù cộng sản quên hẵn sự thật về thân thể của mình với “lồng ngực cường tráng”, đứng lên tố cáo “chế độ giam giữ hà khắc và tàn nhẫn của trại giam Phú Quốc, đã bỏ đói hành hạ chúng tôi…” trước viên Trung Úy Bắc Việt cầm máy thu âmvà sự chăm chú ghi nhận của các sĩ quan Ba Lan Hung Gia Lợi.
Trong khi đó, tại một địa điểm trao trả khác, người tù VNCH với đôi mắt hủng sâu, hai má vàng bủng như còn đọng khối vi trùng độc hại dưới lớp da mỏng, không kêu nổi được tiếng “có mặt” khi được gọi tên, loạng quạng đứng dậy, một đáy quần sũng nước. Hãy nghe anh nói, em sợ tụi nó lắm, tụi nó tàn ác không phải như người đối với người…, em sợ xin đi tiểu rồi nó giữ lại không trả thì chết mất! (trg 90).
“Tôi (PNN) nghe trong lòng nỗi phẫn nộ bão bùng dấy lên như giông tố! Sự thật được che đậy và lật ngược trong tráo trở tỉnh táo, ngang ngược vô liêm sĩ đến tận cùng!” (trg 89).
dataurl962886.jpg
Tạm Kết
Miền Nam mất vào tay cộng sản từ 1975. Người dân miền Nam có quyền phán xét, một trong những nguyên nhân gây nên sự kiện thảm khốc này có sự góp phần của Hiệp Định Ngưng Bắn Ba Lê 1972. Bản chất lươn lẹo khát máu hiễn hiện trong Hiệp Định đã được tác giả PNN nhận thấy rất rõ từ trước trong bàn hội nghị, tại các cuộc trao trả tù binh và rải rác trong khắp TB & HB: “Hiệp Định Ba Lê như một cuộc dừng chân tạm nghỉ để người cộng sản chỉnh đốn lại hàng ngũ và tiếp thay vũ khí”.
CSBV thành công khi tạo dựng một lực lượng võ trang không dân không đất năm 1960, đến năm 1968 trở thành “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPLT/CHMNVN).
Các cuộc trao trả tù binh đã vô tình hợp thức hóa “thực thể” Mặt Trận Giải Phóng có được một một vùng tạm kiểm soát lốm đốm xen kẻ lẫn vùng VNCH.
Khẩu hiệu “Sinh Bắc Tử Nam” không là khẩu hiệu “kích động chiến thuật” nhưng là một “chỉ đạo chiến lược” để hoàn tất cuộc xích hóa miền Nam.
Mặt Trận Giải Phóng, CPLT/CHMNVN sẽ lần lượt đóng hết vai trò “chiến thuật” của nó, trận chiến cuối cùng, trận đấu quyết định chỉ là chúng ta cùng các sư đoàn miền Bắc qua tấm đệm “Mặt Trận”.
Trong các cuộc trao trả, PNN đã uất nghẹn trước bản chất lươn lẹo khát máu và ù lì của cộng sản. Rất nhiều lần anh muốn hét to cho vỡ cả lồng ngực để thế giới biết đâu là cường bạo đâu là nhân bản. Nhưng anh uất nghẹn vì không ai nghe tiếng hét u uẩn đó.
Tôi xin chia xẻ nỗi uất nghẹn này với tác giả TB & HB.
PNN xuất thân Khóa 18 Võ Bị Quốc Gia. Trước khi được đề cử vào Ủy Ban Quân Sự 4 Bên, anh là Đại Úy Đại Đội Trưởng 93/TĐ 9 Nhảy Dù và đã xuất bản 5 tác phẩm là, Dấu Binh Lửa/1969; Dọc Đường Số 1/1970; Ải Trần Gian/1970; Dựa Lưng Nỗi Chết/1971 và Mùa Hè Đỏ Lửa/1972.
Là một cấp chỉ huy Đại Đội tác chiến Dù, bỗng được đề cử làm việc trong Uỷ Ban Liên Hợp Quân Sự, không hề qua một khóa đạo tạo chuyên môn về hội nghị hay thương thảo chính trị, nhưng PNN đã nhanh chóng nắm vững vấn đề và đã tỏ ra bản lãnh, quyền biến và tự tự tin khi đối đầu với các con cáo già cộng sản đã qua kinh nghiệm hội họp từ Hội Nghị Ba Lê 1968-1973.
Về điểm này, tôi xin mượn lời giới thiệu của TNS Hoa Kỳ, ông James Webb: “Quan sát của nhà văn Phan Nhật Nam làm rõ ý nghĩa cái kết thúc của Miền Nam được dự báo trước với những sự kiện bi thảm, trên chiến trường cũng như nỗi thất vọng khi đàm phán với một đối thủ độc ác trong lúc bị đồng minh hàng đầu bỏ rơi” (trg 12)
TB&HB dẫu được viết từ 1973, 1974, xét cho cùng, vẫn còn nguyên giá trị đích thực trong tình thế hôm nay đối với Người Việt trong và ngoài nước, là cần phải thấy rõ một đầu mối: Cộng Sản là Tai Họa Bất Biến đối với nhân loại nói chung, Việt Nam nói riêng.
Phần tôi, qua TB&HB, tôi thấy rõ tấm lòng nhân hậu và Lý Tưởng Quốc Gia Dân Tộc bất biến của đồng đội đồng môn Phan Nhật Nam.
Westminster, hè 2021
Viết lại 04/2025
Bắc Đẩu Võ Ý
(*) Đặt mua sách: 714-200-4188
(Forumpost: Uất Nghẹn Cùng PHAN NHẬT NAM Qua Tù Binh & Hòa Bình )