BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện
“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
“Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
(tiếp theo)
Năm 2006, ông bà Nguyễn Phúc Tửng sang thăm Úc.
Nguyên bà Tửng có một người em trai ở Melbourne nên một công đôi việc, vừa sang thăm em vừa Úc du một lần cho biết; riêng ông Tửng còn để gặp gỡ anh em Không Quân ở xứ kangaroo.
Ông Tửng vốn rất lười sử dụng email, ngày đó tôi lại chưa biết tới những phương tiện như viber cho nên từ ngày ba anh em KQ chia tay nhau tại Rayong năm 2003, chỉ có tôi và ông Ân trao đổi email thường xuyên còn ông Tửng thì chỉ thỉnh thoảng mới trả lời email thăm hỏi của tôi. Tới khi chuẩn bị sang thăm Úc ông mới lấy số mobile phone của tôi để tiện việc liên lạc.
Vào buổi chiều ông bà Tửng tới Melbourne cũng là lúc anh em trong Hội KQ Victoria có buổi họp mặt bỏ túi, gồm ban chấp hành và một vài hội viên nòng cốt tại nhà anh Hội phó nội vụ, cách phi trường chỉ khoảng 15 phút lái xe.
Vì thế trước khi vợ chồng tôi ra phi trường đón ông bà Tửng, tôi đã điện thoại báo cho anh em biết tôi sẽ cố mời hai ông bà ghé qua để gặp gỡ anh em, và nếu có thể, dùng bữa tối sau đó tôi sẽ đưa về.
Dự tính như thế nhưng tôi cũng không mấy hy vọng, vì hai ông bà vừa trải qua một chuyến bay mười mấy tiếng đồng hồ, hơn nữa có gia đình ra đón thì phải ưu tiên cho gia đình. Không ngờ tôi vừa ngỏ lời mời, ông Tửng đã vui vẻ nhận lời và giải quyết cái một: bà Tửng sẽ theo gia đình về nhà người em, ông Tửng sẽ theo tôi tới gặp gỡ anh em KQ, sau đó về nhà tôi ngủ; ngày hôm sau vợ chồng tôi sẽ đưa ông về với gia đình.
Khỏi nói, tôi hết sức cảm động vì sự ưu ái của vị đại niên trưởng KQ mà tôi mới gặp một lần duy nhất ở Thái Lan 3 năm về trước. Anh em KQ hiện diện ở nhà anh Hội phó tối hôm đó cũng rất vui, cảm mến ông Tửng ngay vì sự hòa đồng, thân mật nơi ông.
Đêm hôm đó, vợ chồng tôi nhường phòng ngủ trên lầu cho ông Tửng. Sáng hôm sau, câu đầu tiên của ông Tửng là... chửi thề:
-ĐM mày Thiện. Bộ mày muốn cho tao chết rét hay sao mà hồi đêm mày tắt lò sưởi!
Tôi vừa ngạc nhiên vừa quê một cục. Lúc đó là tháng 9 dương lịch, tức là đã bước sang mùa xuân ở nam bán cầu, nhiệt độ ban ngày trung bình khoảng 25 độ C, ban đêm xuống thấp nhất cũng chỉ 15, 16 độ. Vì nhà tôi trang bị sưởi ngầm (ducted heating), trên lầu luôn luôn ấm hơn dưới nhà cho nên cứ khoảng nửa đêm thì tắt; bên cạnh đó vợ tôi mắc chứng khó thở nên đêm ngủ rất kỵ lò sưởi ga.
Theo phép lịch sự, đáng lẽ ra trước khi tắt tôi phải hỏi ông Tửng nhưng vì ông là... dân Paris (tuyết rơi phủ con tàu, ga Lyon đèn vàng...) tôi không nghĩ ông sẽ... chết rét với thời tiết ở Úc. Báo hại tôi phải giải thích và hết lời xin lỗi.
Chưa hết, tới bữa ăn sáng tôi hỏi ông muốn ăn bánh mì với hột gà ốp-la hay bacon & scambled eggs, hoặc hot dogs, ông nói hột gà ốp-la.
Ông ăn xong, vợ tôi hỏi ông muốn ăn thêm gì không, ông lắc đầu. Nhưng vợ tôi vốn thừa hưởng cái vồn vã màu mè khách sáo của dân Bắc kỳ nên cố mời mọc:
-Hay là để em luộc mấy cái “hot dogs” cho anh ăn thêm nhé.
Ông Tửng dứt khoát từ chối rồi nói:
-Thím Thiện có biết tại sao nhiều người già ở các nước tây phương chết sớm không?
Vợ tôi còn đang ngơ ngác không hiểu tại sao tự dưng ông Tửng lại hỏi câu đó thì ông đã tự trả lời ngay:
-Tại vì họ ăn nhiều quá đó thím!
* * *
Gần trưa, chúng tôi đưa ông về nhà người em vợ ở gần trung tâm thành phố. Vì chạy lố số nhà nên tôi phải U-turn.
Đường xá ở Úc – xứ đất rộng người thưa – rộng rãi, vắng xe lại nhằm ngày Chủ Nhật càng vắng cho nên tôi U-turn cái vèo. Ông Tửng hoảng hốt la lớn rồi chửi tôi như tát nước:
-ĐM Thiện, mày lái gì mà ghê vậy. Ở Paris mà mày chạy vầy là phú-lít nó còng đầu mày đó nghen!
Nhà em vợ ông Tửng rộng lớn như một ngôi biệt thự. Nguyên gia đình vợ ông là người Minh Hương (người Hoa lập nghiệp tại Nam Bộ từ thế kỷ 17, gần như đã Việt hóa 100%); người em trai của bà Tửng có một công ty cung cấp công nhân (labor hire) ở Gippsland, một vùng nông nghiệp trù phú cách Melbourne khoảng 300 km; căn nhà ở Melbourne là nơi để các con ăn học.
Chỉ sau vài phút nói chuyện, vợ chồng tôi đã rất có cảm tình bà Tửng, một phụ nữ hiền lành, ăn nói nhỏ nhẹ, lúc nào cũng mỉm cười. Khi lên xe ra về, vợ tôi thường nhật ít khi khen ai đã phải nhận xét:
-Em chưa thấy ông chồng KQ nào khó tính như anh Tửng, nhưng bù lại cũng chưa thấy bà vợ KQ nào hiền như chị Tửng!
Theo chương trình, ông bà Tửng sẽ về Gippsland, từ đó sẽ được người em vợ đưa đi du ngoạn dọc South Gippsland Highway, được xem là xa lộ ven biển có nhiều cảnh đẹp nhất, nhiều khám phá thú vị nhất: thăm nông trại, vườn nho, khám phá bờ biển, câu tôm cua, bắt bào ngư...
Khi nào trở lại Melbourne ông sẽ báo cho tôi biết để tổ chức buổi gặp gỡ anh em KQ Victoria. Người tình nguyện cho mượn nhà là Lê Văn Danh, một “đại gia” cùng khóa 3/69 với tôi, trước 1975 bay trực thăng cho 217 “Thần Điểu”, SĐ4KQ.
Mặc dù khi hắn về Cần Thơ thì ông Tửng đã rời Liên Đoàn 74 Tác Chiến từ đời nào nhưng vẫn giành đón tiếp vị đại niên trưởng. Buổi cơm tối thân mật quy tụ đông đảo anh chị em hội viên KQ, đặc biệt có sự hiện diện của niên trưởng Nguyễn Văn Răng, Khóa 1 kỹ thuật Rochefort (1952), hội viên duy nhất có thể gọi là “ngang cơ” với ông Tửng.

Với sự vui vẻ hòa đồng (mở miệng ra là bắt chước ông Minh “đù”) và sự hiểu biết về những ngày đầu của quân chủng nói chung, việc thành lập Không Đoàn 74 Chiến Thuật nói riêng, ông Tửng đã được các đàn em KQ bu quanh nghe ông kể chuyện.
Về phần ông, câu nói đầu tiên của ông khi gặp anh em KQ là:
-ĐM tụi bay ở Úc sướng thiệt... Tao về mấy bữa tao qua nữa!
Trong buổi tối hôm đó ông Tửng cứ lập lại câu nói đó hoài. Thì ra người em vợ của ông vừa là thổ địa ở vùng bờ biển đông nam tiểu bang Victoria vừa là một người yêu thích thiên nhiên, đã hướng dẫn anh chị đi du ngoạn các thắng cảnh và thưởng thức mọi của ngon vật lạ trong vùng. Nào là bắt cua, câu tôm, đem lên bờ nướng tại chỗ, bắt bào ngư nấu cháo...
Sau bao năm sống gò bó trong căn apartment chập hẹp ở Paris nay được hòa mình vào thiên nhiên, ông Tửng không mê xứ Úc sao được!
* * *
Anh em KQ cứ bu quanh ông Tửng nghe ông nói chuyện, tới khuya vẫn chưa chịu để ông bà ra về khiến tôi phải can thiệp, sắp xếp thêm một buổi gặp gỡ nữa: với sự tình nguyện cho mượn tư gia của một “Thần Điểu” khác, Hội KQ Victoria sẽ mời ông bà Tửng một bữa cơm tối nữa trước khi ông bà rời Úc, và ông cũng nhận lời ngay!
Bữa cơm thân mật thứ hai ấy, đàn anh đàn em vừa cụng ly vừa tiếp tục nghe ông kể đủ thứ chuyện, chuyện ngày xưa trong Không Quân, chuyện sau 1975 ông đi bay cho một hãng hàng không ở Bắc Phi, chuyện sinh hoạt hiện nay của KQ (đa số là các vị niên trường) ở Pháp...
Khi chúng tôi khui chai cognac Martell mời ông, ông Tửng hỏi có soda không? Tôi lại bày đặt ta đây là người sành điệu, nói đại khái chỉ có dân Mít trước 1975 mới uống Martell pha soda, sang Pháp uống pha như thế không sợ Tây nó cười sao!
Ông Tửng đốp chát ngay:
-ĐM nó cười kệ nó. Rượu tao móc tiền túi ra mua, tao muốn uống sao tao uống chớ!
Tới lúc một người trong chúng tôi cắc cớ hỏi ông về các em “tóc vàng sợi nhỏ” ở kinh thành ánh sáng, vị niên trưởng trên 8 bó đáp như thiệt:
-Tụi bay thằng nào qua Paris cứ kiếm tao, tao dắt đi!
Khi chúng tôi tiễn ông bà ra xe, cả hai phía chủ khách đều bùi ngùi. Như để phá tan bầu không khí ấy, ông Tửng nói:
-Tao sẽ qua nữa mà - rồi lập lại câu nói đùa ban nãy - Tụi bay thằng nào qua Paris nhớ ghé tao nghen, tao sẽ dắt đi thăm mấy em tóc vàng sợi nhỏ!...
* * *
Nhưng ông Tửng không giờ qua Úc lần nữa. Hơn 3 năm sau, ông ra đi bất ngờ vào đúng ngày lễ Giáng Sinh 2009. Bất ngờ tới mức nhiều người bạn của ông ở Paris đang nghỉ hè đã vắng mặt trong tang lễ vì không thể mua vé máy bay vào thời điểm bận rộn nhất trong năm.
Riêng tôi mấy tuần lễ sau mới biết tin!
Nguyên vào mỗi cuối năm dương lịch, tôi thường gửi email chúc lễ Giáng Sinh & năm mới tới mọi người khoảng giữa tháng 12. Năm đó, tôi gửi đi rồi nhận được email trả lời của ông Tửng vào ngày 17 tháng 12. Sau đó “đóng hộp thư” để đi lên Sydney tham dự Đại Hội liên bang lần thứ 9 của Liên Hội Không Quân Úc Châu.
Viết là “đóng hộp thư” vì ngày ấy tôi chưa biết nối kết email với mobile phone, cho nên một khi rời nhà là tạm ngưng liên lạc email với tất cả mọi người. Năm đó sau Đại Hội, phái đoàn của tiểu bang Victoria còn nổi hứng mướn xe buýt lên thăm thủ đô Canberra. Khi về lại Mebourne mở computer mới thấy email của anh Hội phó Nội vụ:
Anh Tửng “đi” rồi, anh hay tin chưa?
Thật không thể ngờ! Mới hôm nào anh em còn gửi email chúc Giáng Sinh cho nhau!
Như một sự trùng hợp vô tình, trước đó gần 2 năm, cựu Chuẩn tướng Từ Văn Bê, vị chỉ huy trưởng của tôi trước năm 1975, qua đời đúng vào ngày sinh nhật của tôi, thì nay ông Nguyễn Phúc Tửng – người mà vợ tôi gọi là “ông già khó tính nhất trong KQ” (nhưng không “khó chịu”) đã ra đi vào đúng ngày sinh nhật của nàng: lễ Giáng Sinh !
* * *
Hơn 10 năm sau, tới lượt ông Võ Văn Ân cất cánh bay vào cõi hư vô.
Giữa hai vị đàn anh Không Quân tôi cảm thấy gần gũi với ông Ân hơn ông Tửng vì ông Ân là bạn cùng khóa 58A Nha Trang với sếp cũ của tôi ngày còn ở Pleiku là Trung tá Lê Bá Định, trong khi ông Tửng cùng khóa 52F2 Marrakech với các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Lưu Kim Cương... từ thời Tây thuộc địa!
Tôi và ông Ân không chỉ thường xuyên email cho nhau sau ngày tôi từ Thái Lan trở về Úc mà ngay từ ngày còn ở Rayong ông Ân đã thường tâm sự với tôi, về cả đường công danh, sự nghiệp lẫn... ái tình.
Viết một cách ngắn gọn, ông Ân được trời ưu đãi. Sinh năm 1936 trong một gia đình trung lưu ở Sa Đéc, sau khi thi đậu Tú Tài 1 chàng trẻ tuổi lên Sài Gòn tiếp tục học hành mong có một tương lai sáng lạn. Nhưng trước những thú vui (lành mạnh cũng như không lành mạnh) ở Hòn ngọc Viễn đông, chàng trai Sa Đéc ấy không quan tâm tới tương lai sự nghiệp nữa, để rồi khi Không Quân ra thông cáo tuyển mộ khóa sinh cho Khóa 58, chàng nộp đơn và trúng tuyển.
Nguyên vào thời gian này người Pháp đã rút đi hết trong khi người Mỹ chưa có chương trình huấn luyện các khóa sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ, cho nên theo chỉ thị của Phủ Tổng thống, BTL/KQ phải cấp tốc tổ chức một khóa huấn luyện, đào tạo hoa tiêu khu trục, hoa tiêu quan sát, quan sát viên ngay tại Việt Nam.
Đó là Khóa 58, được đặt tên “khóa Trần Duy Kỷ” để tưởng nhớ Thiếu úy Trần Duy Kỷ, hoa tiêu khu trục tốt nghiệp Salon-de-Provence mới hy sinh tại Tuy Hòa.
Sĩ quan Trưởng khóa là Trung úy Nguyễn Hồng Tuyền (xuất thân Khóa 53E Marrakech), huấn luyện viên gồm các hoa tiêu tốt nghiệp ở ngoại quốc như các Trung úy Nguyễn Phúc Tửng, Nguyễn Quang Tri, Đặng Hữu Hiệp..., các Thiếu úy Ôn Văn Tài, Nguyễn Văn Trương...
Khóa gồm hai ngành hoa tiêu (58A) và quan sát viên (58B), tốt nghiệp vào năm 1960, đã đào tạo nhiều phi công tài ba, cấp chỉ huy nổi tiếng trong quân chủng sau này, như Chế Văn Nghĩa (Thủ khoa 58A), Lê Xuân Lan, Đặng Thành Danh, Lê Bá Định, Lê Mộng Hoan, Võ Trung Nhơn, Võ Văn Ân, Lưu Đức Thanh, Lý Thành Ba, Nguyễn Văn Chín (Thủ khoa 58B)...
Nguyễn Văn Chín, Lưu Đức Thanh và Lâm Văn Sơn (hình và chú thích của NT Nguyễn Văn Chín)
Trước hết nói về ưu đãi trên đường sự nghiệp, ông Ân cho biết cả hai lần được được đặc cách lên đại úy và đại tá của ông đều “trên trời rơi xuống”.
Khi xảy ra cuộc đảo chánh lật đổ TT Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963, Trung úy Võ Văn Ân đang phục vụ tại Phi Đoàn 112 quan sát ở CCKQ Biên Hòa; mặc dù không có chút công trạng nào (trong cuộc đảo chánh) tới khi đơn vị thiết lập danh sách vinh thăng đại úy chẳng hiểu sao lại có tên ông và ông chỉ được biết khi có quyết định thăng cấp.
Sau đó ông lên làm Chỉ huy trưởng PĐ112, rồi ra Nha Trang làm Chỉ huy trưởng PĐ114.
Đầu năm 1972, KQVN tiếp nhận căn cứ không quân Phan Rang, đặt tên Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân, gồm Không Đoàn 92 Chiến Thuật, Không Đoàn Yểm Cứ Phan Rang, và Liên Đoàn 20 Kỹ Thuật.
Không Đoàn 92 Chiến Thuật gồm ba phi đoàn A-37 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu, 548 Ó Đen (Phi Đoàn của LT) và Phi Đội tản thương 259D, do Đại tá Lê Văn Thảo làm Không đoàn trưởng, Trung tá Võ Văn Ân làm Không đoàn phó.
Không Đoàn Yểm Cứ Phan Rang do Trung tá Trần Đình Giao, gốc Kiểm Báo, làm Không đoàn trưởng.
Vì việc ông Ân lên đại tá vào đầu năm 1974 đã gây ra “ân oán” giữa Trung tá Trần Đình Giao và vị Đại tá chỉ huy trưởng CC20CT, và trong hồi ký “Vui buồn Phan Rang” khi kể lại chuyện mình bị hụt lon đại tá ông Giao đã không nêu danh tính vị chỉ huy trưởng ấy (mà cả Không Quân đều biết là ai), chỉ viết Đại tá Đ cho nên ở đây tôi cũng xin chỉ ghi là Đại tá Đ.
Nguyên vào cuối năm 1973, Trung tá Trần Đình Giao, vốn quen biết lớn bên Bộ TTM, sau khi đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp về đã được một ông đại tá ở Bộ TTM cho biết với cái bằng “cao cấp” này và chức vụ đang nắm giữ (Không đoàn trưởng) chắc chắc ông Giao sẽ được thăng cấp Đại tá nhiệm chức (đặc cách chức vụ).
Nhưng xui cho ông Trần Đình Giao, đêm 22/12/1973 bọn đặc công VC cắt hàng rào chui vào phi trường phá hủy hai trong số những chiếc phản lực F-5E mới cáo chỉ vừa được đưa từ Hoa Kỳ sang. Mặc dù khu vực (hàng rào) nói trên do một đại đội Địa Phương Quân chịu trách nhiệm trực tiếp nhưng ông Giao với tư cách Không đoàn trưởng Yểm Cứ cũng phải liên đới chịu trách nhiệm, và... lãnh đủ.
Ông bị Đại tá Đ, Chỉ huy trưởng CC20CT, ký lệnh phạt 15 ngày trọng cấm về tội sao lãng nhiệm vụ; ông phản đối thì Đại tá Đ cho biết đây là lệnh từ trên. Lên tới Bộ tư lệnh SĐ2KQ, bị Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lượng gia tăng thành 20 ngày, về tới BTL/KQ thành 30 ngày; cuối cùng đưa lên Bộ TTM thành 45 ngày. Hết đường lên đại tá!
Vì thế, để điền vào chỗ trống trong danh sách đề nghị thăng cấp đại tá thiết lập cuối năm 1973, vị Không đoàn phó KĐ92CT - Trung tá Võ Văn Ân - đã được đề nghị. Kết quả qua đầu năm 1974, trước tết nguyên đán mấy ngày, ông Ân lại “bị đè ra” gắn lon đại tá!
Theo sự hiểu biết của tôi, ông Võ Văn Ân là vị Không đoàn phó duy nhất trong KQVN mang cấp bậc đại tá, và là một trong hai khóa sinh Khóa 58 lên tới cấp đại tá, người kia là Đại tá Nguyễn Văn Chín, Tham mưu phó Hành Quân SĐ4KQ (ngày còn ở Biên Hòa, khi ông Ân làm Chỉ huy trưởng PĐ112 thì ông Chín làm Chỉ huy phó).
* * *
Trên đường tình ái, ông Ân được trời ưu đãi còn hơn cả đường binh nghiệp. Theo những gì ông tâm sự với tôi, bà Nicole Kim, người sau này lấy ông Nguyễn Cao Kỳ, là phụ nữ thứ năm đi qua đời ông!
Thực ra năm (5) người đẹp không phải là con số quá lớn đối với một tay chơi cỡ Don Juan nhưng với một người hiền lành, ít nói như ông Ân thì... hơi nhiều!
Trong thời gian ngắn ngủi một tuần lễ ở Rayong, ông Ân chỉ kể cho tôi nghe về hai cuộc tình của ông – tình đầu và tình cuối. Trong bài này tôi chỉ viết về tình đầu.
Tình đầu của ông Ân rất ngắn, nhưng không... ngây thơ vô tội. Chính vì không ngây thơ nên đã gây ra những hệ lụy, chỉ có điều an ủi là cuối cùng đã không có ai trở thành “nạn nhân”, và người đau khổ nhất là chính bản thân ông Ân – người đã gây ra những hệ lụy ấy.
Trở lại với cuối thập niên 1950, khi bỏ Sa Đéc lên Sài Gòn chàng trẻ tuổi Võ Văn Ân đã để lại một giọt máu nơi quê nhà mà chàng không hề hay biết. Nàng xuất thân từ một gia đình danh giá, được nhiều người theo đuổi, và một trong những người đàn ông ấy đã ra tay nghĩa hiệp, tiến tới hôn nhân với nàng và nhìn nhận đứa bé là con của mình.
Bí mật này mãi về sau ông Ân mới biết. Nhưng khi kể cho tôi nghe ở Rayong năm 2003 ông không hề cho tôi biết người xưa của ông hiện nay đã trở thành góa phụ và định cư tại Úc với các con, trong đó có người con gái của ông.
Chính vì thế khi bí mật sang Úc lần thứ nhất, ông đã không hề cho tôi biết; và tôi chỉ được nghe kể lại sau khi ông sang Úc lần thứ hai. Qua đó, tôi được biết mọi việc đã kết thúc một cách tốt đẹp nhưng man mác buồn như một cuốn tiểu thuyết của Quỳnh Dao.
Người kể lại cho tôi nghe là một KQ quen biết và sống gần nhà người xưa của ông Ân. Bà đồng ý gặp mặt ông tại một nhà hàng. Không ai được biết hai người tình xưa nói với nhau những gì trong cuộc hạnh ngộ sau hơn 50 năm, chỉ biết bà đã yêu cầu ông Ân “những gì đã qua cho qua luôn”, nghĩa là cô con gái sẽ không giờ biết người mà mình gọi là “cha” không phải cha ruột của mình!
Dĩ nhiên, ông Ân phải chấp nhận.
* * *
Ông Ân sang Úc lần thứ hai vào khoảng năm 2012, 2013 (mấy năm sau khi ông Tửng mất). Ông đi với một vị nữ lưu hoạt động trong một tổ chức chính trị nọ ở Pháp. Vì thời giờ eo hẹp, ông Ân chỉ báo cho tôi và anh Hội trưởng Không Quân Victoria biết vào giờ phút chót, cho nên chúng tôi chỉ kịp sắp xếp một buổi ăn tối thân mật với Ban chấp hành Hội tại nhà anh Hội phó Nội vụ trước khi ông rời Úc.
Qua buổi gặp gỡ, chúng tôi mới biết vị nữ lưu này nguyên là một đàn em của ông Tửng ở Pháp (mà cô gọi là “Đại tá”); khi ông Ân sang Pháp thăm, ông Tửng đã giới thiệu và nhờ ông Ân đỡ đầu, đưa đi các nơi vận động.
Gặp lại ông Ân sau 10 năm tôi đã phải giật mình, ái ngại: ông già đi thật nhanh, đi đứng khó khăn chậm chạp, phải chống gậy, giọng nói cũng yếu đi nhiều (tôi bị bất ngờ vì hai anh em chỉ liên lạc qua email).
Trong một phút riêng tư ngắn ngủi trên thềm nhà khi tiễn ông ra xe, tôi hỏi tình trạng cái chân đau, ông nói ngày càng tệ hại, sở dĩ ông cố gắng tháp tùng cô “đàn em” của ông Tửng sang Mỹ, sang Úc chỉ vì đã trót hứa với đàn anh; và chuyến đi Úc này chắc chắn sẽ là lần xuất ngoại cuối cùng của ông.
Thế nhưng sau khi ông Ân trở về Houston, qua đọc các email của ông, tôi lại lo ngại về mặt tinh thần của ông nhiều hơn về thể xác.
Ông than thở ông nhớ quê hương quá. Ông nhắc lại những chuyến đi Mỹ - Thái Lan (ngày vụ án LT chưa xử xong) mỗi lần bay ngang Đà Nẵng biết dưới đó là quê hương mình mà không một lần được về thăm!
Ông buồn vì ông cô đơn, sống một mình trong một chung cư. “Lắm mối tối nằm không”, như ông viết cho tôi.
Rồi email của ông thưa dần, thưa dần... Tới khoảng năm 2015 thì chấm dứt luôn. Tôi hoảng quá nhưng không biết hỏi thăm ai vì tôi không có một người quen nào ở Houston.
Thực ra tôi cũng có một tay bạn chí thân là Trần Ngọc Tự, cùng ngành CTCT Không Quân, cùng khóa 3/69, nhưng năm 2006 hắn mới sang Mỹ, mặc cảm trâu chậm uống nước đục nên hầu như chẳng giao kết với ai.
Cuối cùng tôi nhớ tới Trung tá Võ Ý, một đàn anh cầm bút tôi quen biết từ ngày còn ở Pleiku, trước kia có thời gian phục vụ tại Phi Đoàn 114 ở Nha Trang dưới quyền ông Ân. Sang Mỹ theo diện HO, lúc đầu anh Ý định cư ở St Louis, Missouri, sau chuyển sang California.
Tôi không nhớ rõ sau khi nhận được email của tôi anh Ý mới bay sang Houston thăm ông Ân lần đầu hay trước đó anh đã từng sang thăm, chỉ biết khi về anh cho tôi địa chỉ email của KQ Phạm Văn Thìn, hiện là người gần gũi ông Ân nhất.
Qua liên lạc, tôi được biết anh Thìn chỉ là một quân nhân cấp thấp, trước đây không hề quen biết ông Ân, nhưng sau khi trở thành “hàng xóm” (cùng ở một chung cư), thấy tình cảnh đơn chiếc của vị niên trưởng, hai vợ chồng anh thường xuyên sang thăm, dọn dẹp, giúp mua sắm những thứ cần thiết.
“Tình nghĩa Không Quân” của anh Thìn khiến tôi hết sức cảm động. Anh cho tôi biết cả sức khỏe lẫn trí nhớ của ông Ân ngày càng suy sụp, chỉ có điều an ủi là mỗi khi anh cho ông biết tôi gửi lời thăm ông trong email, ông vẫn còn nhớ thằng em ở Úc.
Nhưng chỉ vài tháng sau, anh Thìn báo tin cho tôi biết ông Ân đã được đưa vào nursing home...

Huỳnh Thanh Minh, Nguyễn Phúc Kim Duyệt, Trần Tấn Giới, và cựu Đại tá Lê Văn Thảo
Bốn năm sau, tôi và anh Võ Ý nhận được hung tin từ KQ Phạm Văn Thìn, nguyên văn:
Kính chuyển đến anh Võ Ý và anh Nguyễn Hữu Thiện.
ĐT Võ Văn Ân đã ra đi vào lúc 1.41 phút sáng hôm nay, ngày 12/8/2020, nhằm ngày 23/6 năm Canh Tý tại nhà thương Herman, Southwest Memorial Hospital.
Sẽ thêm chi tiết về nhà quàn và tang lễ khi Võ Phi Long (trưởng nam) đang trên đường xuống Houston để lo hậu sự.
Kính báo,
Phạm Văn Thìn
* * *
Xin được kết thúc bài viết này bằng những dòng đầy nghĩa tình của anh Võ Ý:
Tang lễ cố Đại tá Võ Văn Ân
Ngày 21-8-20, lúc 2pm, Hội Trưởng và anh em BCH Hội Cựu CSQG Houston & PC, Texas đến dự tang lễ của Cố Đại tá KQ Võ Văn Ân là thân nhân của NT Lý Hoài Ân (K14) tại nhà quàn Vĩnh Phước, do Thượng Toạ Thích Mật Hạnh và hai Sư Cô, Ban Hộ Niệm, Phật tử chùa Diệu Pháp hành lễ.
Vì đại dịch Covid-19 nên giới hạn trong gia đình, bà con thân tộc, một số hội đoàn, thân hữu, cựu quân nhân. Trang nghiêm và cảm động. NT Võ Văn Ân cũng từng là PĐT/PĐ114 và Tham Mưu Phó Nhân Huấn SĐ2KQ Nha Trang.
Những ngày cuối tại Houston, trí nhớ của NT sa sút, NT được KQ Phạm Văn Thìn (và bà xã) thăm viếng giúp đỡ.
KQ PVT giữ áo bay của NT và cho biết ước nguyện khi Ông cất cánh phi vụ cuối là GĐ nên tẩm liệm chiếc áo bay cho Ông.
Giờ đây, hẳn là NT đang thanh thản trên đường bay về Nơi Cõi Hết, không mang theo gì, ngoài chiếc phi bào từng theo NT xông pha khắp vùng trời lửa đạn năm xưa để bảo vệ Tự Do và An Bình cho đồng bào thân yêu.
Xin chân thành chia buồn cùng tang quyến về sự mất mát này.
Nguyện Cầu Hương Linh NT KQ Võ Văn Ân
Pháp Danh QUẢNG PHƯỚC
Sớm Vãng Sanh Lạc Quốc
Thành kính,
Võ Tình, K17
KQ Võ Ý
KQ Nguyễn Hữu Thiện
KQ Phạm Văn Thìn
KQ Hùng Hoàng
(hết Phần 3)
