BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
“Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
(tiếp theo)
Qua ngày hôm sau, ông Ân có cuộc gặp gỡ với một nhân vật quan trọng là vị Tổng lãnh sự Mỹ tại Rayong (hay Pattaya, tôi không nhớ rõ) để vận động Tòa Đại sứ Mỹ gây áp lực với nhà cầm quyền Thái Lan bác bỏ yêu cầu của CSVN dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Đây là một bí mật mà ông Ân căn dặn tôi phải tuyệt đối giữ kín cho nên trong những bài tường thuật sau đó trên tờ báo tôi cộng tác cũng như trên đặc san LÝ TƯỞNG Úc Châu, tôi đã không hề đề cập tới.
Nguyên vị Tổng lãnh sự này có vợ người Thái Lan mà bằng cách nào đó ông Ân quen biết. Bà vợ này rất cảm phục sự can đảm của LT, sự tận tụy của ông Ân nên đã đề nghị chồng giúp đỡ.
Để tránh sự dòm ngó của phe địch (cũng như truyền thông phe ta) đôi bên đã thỏa thuận lựa chọn một địa điểm ít ai ngờ tới: ăn tối tại một nhà hàng all-you-can-eat ở ngay trung tâm du lịch gần bãi biển Rayong.
Đó là tầng trên cùng của một building 21 tầng sát bờ biển nhìn ra vịnh Thái Lan. Khu vực lấy thức ăn có nhân viên phục vụ chu đáo, khu ăn uống có những bàn ngồi rất riêng tư, kín đáo, ngoài ban-công thì có các lò BBQ và bàn ghế để khách có thể ăn vừa ngắm vịnh Thái Lan.
Thực ra ông Ân, ông Tửng có thể để tôi ở nhà, ra chợ Rayong ăn tối một mình nhưng có lẽ hai ông cũng muốn cho thằng em được thưởng thức “all-you-can-eat 5 sao” nên dắt theo.
Phần tôi, hiểu được tính cách tế nhị của cuộc gặp gỡ kín đáo này, sau khi chào hỏi, ăn uống qua loa tôi xin phép ra ban-công ăn BBQ, hút thuốc, mục đích để bốn người còn lại được nói chuyện thoải mái.
Lúc đó màn đêm đã buông xuống, nhìn ra biển chỉ thấy ánh đèn lấp lánh trên những chiếc du thuyền. Bỗng dưng tôi cảm thấy trống vắng và nhớ Việt Nam một cách lỳ lạ. Khi bước xuống thuyền vượt biên năm 1981, tôi đã thề không bao giờ trở lại một khi quê hương còn bóng cờ đỏ. Cuối năm 1999, khi bố tôi qua đời sau hơn 2 năm bị ung thư nằm chờ thằng trưởng nam về trăn trối mà không thấy tăm hơi, tôi đau buồn vô cùng nhưng vẫn không cảm thấy nhớ nhà như lúc này. Có lẽ trong màn đêm tôi có thể tưởng tượng Việt Nam ở thật gần, ngay đâu đây.
Tôi không cường điệu mà thật sự trước đó cũng như sau này tôi chưa bao giờ có cảm tưởng mình gần Việt Nam, nhớ Việt Nam như lúc ấy!
* * *
Một tuần lễ trôi qua rất nhanh, buổi tối cuối cùng ở Rayong “thằng nhỏ Bắc kỳ cái gì cũng biết làm” lấy đôi đũa khui chai vang đỏ thứ hai mà ông Tửng mang từ Pháp qua.
Rất tiếc trong buổi tối trước khi chia tay ấy tôi đã không có được một “cử chỉ đẹp” để rồi sau này mỗi lần nhớ tới hai vị đàn anh đáng mến tôi lại phải áy náy, ân hận.
Đó là việc “ăn đồng chia đều”. Sau bữa ăn tối, khi ông Ân nói tôi tổng kết chi tiêu của ba anh em từ lúc đặt chân lên taxi từ Bangkok đi Rayong, lẽ ra tôi phải cưa đôi, tôi chịu một nửa hai ông chịu một nửa mới là biết điều, bởi vì chi phí (công vụ) của tôi do quỹ Hội Không Quân Victoria đài thọ, trong khi ông Tửng phải bỏ tiền túi ra vì Hội Không Quân ở Pháp không hề có quỹ.
Nguyên nhân khiến tôi ngay lúc đó không nghĩ tới việc chơi đẹp với hai đàn anh là vì trong nội bộ Hội KQ Victoria có một sự “cạnh tranh” ngầm giữa những người được Hội cử đi Thái Lan thăm LT, xem ai đỡ hao quỹ nhất!
* * *
Sáng hôm sau, ba anh em đi bộ ra bến xe đò Rayong – Bangkok, ông Ân hướng dẫn tôi mua vé rồi dặn dò đường đi nước bước khi về tới Bangkok, không quên trao cho tôi miếng giấy ghi tên phi trường Don Mueang bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Thái. Ông còn chu đáo cho tôi biết trong phi trường có “lockers” để cất hành lý trong trường hợp tôi muốn đi tới trung tâm thương mại gần đó để mua sắm.
Trong lúc chờ tới giờ xe chạy, ba anh em tiếp tục trò chuyện. Khi tôi hỏi hai ông có tính sang thăm Úc không, ông Tửng nói chắc chắn ông sẽ sang trong một ngày rất gần vì vợ ông có người em ruột ở Melbourne, ông Ân thì nói phải đợi tới khi vụ xử LT kết thúc ông mới nghĩ tới việc đi Pháp, đi Úc để thăm và cám ơn anh em Không Quân.
Ông Ân nhấn mạnh chỉ thăm và cám ơn anh em KQ mà thôi vì trên danh nghĩa ông chỉ là một đàn anh KQ đứng ra lo cho đàn em cũ chứ không nằm trong một hội đoàn, tổ chức mang danh xưng “yểm trợ LT” nào cả.
Dù ông Ân không đi vào chi tiết, tôi cũng có thể suy đoán đã có những chuyện không vui giữa một số hội đoàn, tổ chức và cá nhân yểm trợ LT ở bên Mỹ trong việc tranh giành “chính danh”!
Sau cùng, có lẽ mủi lòng trước cảnh thằng em KQ lủi thủi về Úc một mình, ông Tửng đã bật mí với tôi về nhiệm vụ của ông trong chuyến đi Thái Lan, đó là chuyển lá thư của Công chúa X, con gái cựu hoàng Bảo Đại, tới bạn của bà là Công chúa Y, con gái lớn của Quốc vương Bhumibol và cũng là một nhà hoạt động xã hội uy tín, để nhờ can thiệp với chính phủ Thái Lan không cho dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Ông Tửng nói bữa trước ông không có mặt trong cuộc gặp gỡ vị luật sư Thái là vì có hẹn gặp gỡ một người thân cận của Công Chúa Y đang ở Rayong để nhờ chuyển lá thư của Công chúa X.
Ông Tửng cho biết ông được trao nhiệm vụ quan trọng này là vì từ năm 1975 ông đã tham gia hoạt động trong tập thể người Việt quốc gia tại Paris nói riêng, tại Pháp nói chung, và hiện đang giữ chức vụ Tổng Thư Ký Văn Phòng Liên Lạc các Hội đoàn người Việt tại Pháp. (Chú thích)
Nghe ông Tửng kể đầu đuôi, tôi càng thêm quý mến vị niên trưởng mà lúc mới gặp tôi đã hấp tấp nhận xét là “lạnh lùng, khó chịu”!
Xe đò chuyển bánh, nhìn hai đàn anh KQ – một đi cà nhắc, một mới mổ tiền liệt tuyến – vẫy tay chào, lòng tôi chùng xuống...
* * *
Về tới bến xe Bangkok, tôi gọi taxi tới phi trường Don Mueang. Vì còn cả một buổi chiều chờ phi cơ đi Úc, tôi tới khu “lockers” gửi hành lý rồi kêu taxi tới trung tâm thương mại gần đó mà ông Ân đã chỉ. Khi biết tôi là du khách, người tài xế taxi hỏi tôi dự tính muốn mua những thứ gì, tôi trả lời chưa biết thì anh ta đề nghị đưa tôi tới một trung tâm thương mại khác, xa hơn không bao nhiêu nhưng lớn hơn, có đủ loại mặt hàng, mà giá lại rẻ hơn.
Tôi nghe theo, tới nơi mới thấy người tài xế taxi nói không ngoa, từ thời trang, mỹ phẩm tới máy móc, đồ điện tử không thiếu một thứ gì, nhiều đến nỗi đi lên đi xuống 4, 5 tầng lầu mấy lần mà tôi vẫn không biết mua món gì với mấy trăm đô-la còn lại trong túi.
Thực ra ngay từ đầu tôi đã muốn mua một cái máy chụp hình digital nhưng vì ở đây có quá nhiều hiệu, nhiều kiểu, tôi lại không có sự chuẩn bị, nghiên cứu trước nên không biết nên mua máy nào; cuối cùng tôi chỉ mua một cái nồi cơm điện hiệu National (Panasonic) giá 100 đô-la để lấy điểm với bà xã vì cái nồi hiệu Tiger ở nhà đã quá cũ. Hơn 15 năm sau, khi LT đã hóa người thiên cổ, cái nồi “made in Thailand” ấy vẫn không chịu hư!...
* * *
Tới đây xin được tóm tắt diễn tiến, kết quả vụ xử LT về 3 tội danh Đe dọa tính mạng công dân Thái Lan - Cưỡng ép sử dụng máy bay trái với mục đích ban đầu - Vi phạm luật xuất nhập cảnh Thái Lan.
Vụ xử diễn ra đúng vào ngày lễ Giáng Sinh năm 2003. Theo vị luật sư biện hộ cho LT, trong ba tội danh bị cáo buộc chỉ có tội danh thứ ba (Vi phạm luật xuất nhập cảnh Thái Lan) là chính xác, hai tội danh còn lại chỉ đúng... một nửa vì LT đã không sử dụng vũ khí để uy hiếp phi công, để cướp phi cơ thì không thể khép vào tội “không tặc” như công tố viện Rayong đã cáo buộc.
Kết quả, LT chỉ bị tuyên án mức thấp nhất: 7 năm tù; và vì thời gian thọ án được tính từ ngày bị bắt (đầu năm 2000), LT sẽ được trả tự do vào cuối năm 2007.
Nhưng chế độ CSVN đã không chịu khoanh tay nhìn TL được trả tự do, được người Việt chống cộng tại hải ngọai một lần nữa chào đón như một người hùng, một “Chiến sĩ Tự do” (Freedom Fighter)!
Cũng xin được nhắc lại, cuối năm 2000, sau khi LT thả truyền đơn trên không phận VN trở về và bị cảnh sát Thái Lan bắt giữ, CSVN đã làm lớn chuyện, cho Bộ Công An khởi tố bị can LT theo luật hình sự, ban hành quyết định truy nã quốc tế, và yêu cầu nhà chức trách Thái Lan cho dẫn độ LT về Việt Nam để xét xử theo luật pháp của CSVN, nhưng phía Thái Lan đã tìm mọi cách trì hoãn việc trả lời yêu cầu này, và cuối cùng lơ luôn!
Nay vì Thủ tướng Thaksin Sinawatra đã bị phe quân đội đảo chánh vào đầu năm 2006, tướng Surayud Chulanont, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Thái Lan lên giữ chức Thủ tướng lâm thời, đang tìm mọi cách bình thường hóa quan hệ ngoại giao với CSVN, chuẩn bị đi Hà Nội tham dự Hội nghị APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương) vào tháng 11 năm 2006, phía CSVN đã nhân cơ hội này yêu cầu tân chính phủ Thái Lan sau khi LT mãn án tù 7 năm về các vi phạm luật pháp Thái Lan, cho dẫn độ anh về VN để bị xét xử về tội “xâm nhập không phận VN, một quốc gia có chủ quyền”.
Trước sự việc này (yêu cầu dẫn độ của CSVN), LT đã tuyệt thực tại nhà tù Rayong để phản đối và kêu gọi các tổ chức nhân quyền quốc tế gây áp lực với chính phủ Thái Lan, nhưng vô ích, tới ngày 4 tháng 9 năm 2006, tòa hình sự Bangkok đã quyết định sẽ cho dẫn độ LT về VN sau khi mãn án 7 năm tù.
Khỏi nói, phía CSVN vô cùng hồ hởi phấn khởi; phát ngôn viên Chính phủ Việt Nam đã hoan nghênh quyết định này của tòa hình sự Thái Lan và nói “hành động của Lý Tống cần phải bị nghiêm trị”!
Về phần LT, thông qua luật sư đại diện đã đệ đơn kháng án, và tới ngày 26 tháng 9 năm 2006, đơn kháng án của anh đã được tòa phúc thẩm chấp thuận.
Nhưng chấp thuận rồi để đó chứ không chịu ấn định ngày xử. Thật khó hiểu!
Mãi sau này người ta mới biết phiên tòa ngày 4 tháng 9 năm 2006 ấy (quyết định cho dẫn độ LT về VN) chỉ là cảnh mở màn của một “kịch bản chính trị” với những diễn tiến bất ngờ và vô cùng thú vị (với những người chống cộng).
Sở dĩ tòa án Thái Lan chấp thuận đơn kháng án của LT rồi lại để đó là vì họ muốn chờ Thủ tướng Thái Lan đi dự Hội Nghị APEC xong xuôi.
Vì thế sau khi Thủ tướng Thái Lan Surayud Chulanont được Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp trọng thể tại Hà Nội, Thông cáo trên website của Bộ Ngoại Giao CSVN khi nhắc tới “những sự hợp tác tốt đẹp mà đôi bên đã đạt được trong thời gian qua”, không quên nhắc tới việc Thái Lan chấp thuận cho dẫn độ LT về VN:
“Phía Việt Nam hoan nghênh phán quyết của tòa án hình sự Băng Cốc quyết định trao Lý Tống cho Việt Nam xét xử".
Phải đợi ba tháng sau Hội Nghị APEC, tòa phúc thẩm Bangkok mới xét đơn kháng án của LT.
Kết quả, sau phần trình bày của luật sư biện hộ, ngày 3 tháng 4 năm 2007, tòa phúc thẩm Bangkok đã tuyên bố hành động của LT mang tính chất chính trị chứ không phải là đe dọa an ninh, và dựa trên một điều luật của Thái Lan không cho dẫn độ những người “đang đối diện với các cáo buộc mang tính cách chính trị”, đã bác bỏ quyết định của tòa hình sự hồi tháng 9 năm 2006 cho dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Trong phán quyết của mình, ông Chánh án Wisarut Sirisingh viết:
"Những gì ông Lý Tống làm không gây ảnh hưởng về an ninh lãnh thổ Việt Nam. Thái Lan không dẫn độ những người đối diện các cáo buộc về chính trị."
Quả là một cái tát vào mặt chế độ CSVN. Ngay sau đó, phát ngôn viên Lê Dũng của Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã hậm hực tuyên bố:
“Phán quyết của Tòa phúc thẩm Băng Cốc là không công bằng, hoàn toàn trái với luật pháp Thái Lan, luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế, và không phù hợp với sự phát triển quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Thái Lan, cũng như đi ngược lại những nỗ lực chung trong việc phòng chống tội phạm và khủng bố ở khu vực và trên thế giới”.
Thế là ra khỏi nhà tù Rayong, LT trở về Hoa Kỳ như một người hùng – lần thứ hai!
* * *
Trở lại với bốn chữ “kịch bản chính trị” mà tôi sử dụng ở trên khi viết về kết quả hai phiên tòa - mà phía CSVN cho là “tiền hậu bất nhất” - của Thái Lan trước yêu cầu của nhà cầm quyền CSVN cho dẫn độ LT về VN xét xử.
Tại sao trước đó, ngày 4 tháng 9 năm 2006, tòa hình sự Bangkok đã phán quyết cho dẫn độ LT về VN mà mấy tháng sau phán quyết này lại bị tòa phúc thẩm bác bỏ?!
Luật pháp, nhất là những gì có liên quan tới một vụ án có tầm vóc quốc tế, đâu phải trò đùa!
Ngày ấy qua nghe, đọc bình luận của các đài phát thanh BBC, Á Châu Tự Do, tôi (và nhiều người) tin rằng lúc đầu chính phủ Thái Lan quyết định cho dẫn độ LT về VN là để bày tỏ thiện chí trong việc bình thường hóa bang giao với quốc gia cộng sản này, nhưng sau đó vì có sự can thiệp của Hoa Kỳ và sự phản đối mãnh liệt của cộng đồng người Việt chống cộng ở hải ngoại, Thái Lan đã phải quay một góc 180 độ, thả LT về Hoa Kỳ.
Chỉ sau khi đọc những bài phân tích của các nhà báo tây phương, tôi mới biết đây là một “kịch bản” đã được phía Thái Lan viết sẵn từ năm 2003, khi “công dân Mỹ” LT ra tòa án Rayong để lãnh án.
Cũng cần nhấn mạnh, trước sau nhà cầm quyền Mỹ chỉ xem LT như một tay “không tặc” (hijacker), tức là không thể công khai bênh vực, nhưng đồng thời xưa nay Hoa Kỳ - đệ nhất cường quốc - cũng không chấp nhận việc công dân Mỹ bị một chế độ cộng sản xét xử.
Thành thử có cho ăn kẹo, Thái Lan cũng không dám cho dẫn độ LT về VN. Suy ra việc tòa hình sự Bangkok trong phiên xử ngày 4 tháng 9 năm 2006 phán quyết cho dẫn độ LT về VN chỉ là một màn trình diễn không hơn không kém!
Viết là “trình diễn” bởi vì chính phủ Thái Lan muốn chứng tỏ cho mọi phía (CSVN cũng như quốc tế) thấy tòa hình sự của họ đã chấp thuận cho dẫn độ LT về VN, nhưng cuối cùng lại bị tòa phúc thẩm bác bỏ. Mà sống trong một quốc gia thượng tôn pháp luật, tòa án (tư pháp) là cha mẹ, chính phủ (hành pháp) không có quyền can thiệp.
Nói cách khác, có hay không có sự phản đối, các cuộc vận động của người Việt chống cộng tại hải ngoại, tòa phúc thẩm Bangkok cũng sẽ bác bỏ phán quyết của tòa hình sự cho dẫn độ LT về VN.
Khi viết như thế, tôi không phủ nhận công sức của các hội đoàn, tổ chức và cá nhân người Việt chống cộng tại Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu, Úc Châu, trong đó có hai vị niên trưởng KQ Võ Văn Ân, Nguyễn Phúc Tửng, mà chỉ muốn chứng minh một điều: “đế quốc Mỹ” là ông kẹ!
* * *
Tới đây viết về quan hệ giữa hai vị niên trưởng KQ và LT trong thời gian anh bóc lịch trong nhà tù Rayong, từ đầu năm 2004 tới cuối năm 2007.
Cả ba "anh em Không quân" hiện nay đã về bên kia thế giới, cho nên khi nhắc lại chuyện cũ tôi tự đặt cho mình một giới hạn: không nói xấu hay chê trách người đã khuất mà chỉ tóm tắt một số sự việc có thật liên quan tới chuyện “rã đám” giữa LT và “Sư phụ”, giữa LT và anh em KQ ở Úc, còn tình tiết tôi và anh em KQ sống để bụng chết mang theo.
(“Anh em KQ ở Úc” nhắc tới ở đây xin được hiểu là anh em KQ trong Hội Ái Hữu Không Quân tiểu bang Victoria, cách riêng Ban chấp hành Hội, lúc đó đang kiêm nhiệm Ban chấp hành Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu, nhiệm kỳ 2002-2005)
Không phải tôi khoe khoang, ca tụng “phe ta” nhưng trên thực tế ngay từ đầu - tức là từ ngày thành lập Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống (Victoria) vào năm 1992 - cho tới khi đón LT sang thăm Úc lần thứ nhất (1998), chúng tôi ủng hộ LT hết mình nhưng không muốn bị mang tiếng "dựa hơi" hoặc lợi dụng tên tuổi LT cho nên đã hoàn toàn độc lập, về tổ chức, hoạt động cũng như tài chánh, không lệ thuộc, dính dáng tới bất cứ hội đoàn, tổ chức và cá nhân yểm trợ LT ở Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới (ngoài nước Úc).
LT biết rõ điều đó và, ít nhất cũng trong thời gian đầu, đã tỏ ra thân thiết, nể phục chúng tôi, và rất biết ơn đồng bào ở Úc về sự đóng góp mạnh mẽ vào quỹ Phát Huy Tinh Thần Lý Tống, Quỹ pháp lý yểm trợ LT.
Nhưng mọi sự bắt đầu thay đổi ít lâu sau khi sau khi LT bị tuyên án 7 năm tù và ngồi bóc lịch trong nhà tù Rayong.
Qua những lá thư gửi cho anh Liên hội trưởng KQ Úc Châu, LT ngày càng tỏ thái độ bi quan trước viễn ảnh sau khi mãn án tù ở Thái Lan sẽ bị dẫn độ về VN, và bất mãn trước việc (theo lời anh) mọi người, trong đó có các chiến hữu KQ, bỏ rơi anh, không chịu tiếp tục tranh đấu cho “lý tưởng”... Sự bi quan, mức độ bất mãn càng gia tăng, nội dung các lá thư càng gay gắt, thậm chí có những lời xỉ vả (anh em KQ hải ngoại) thậm tệ.
Dù những lá thư ấy chỉ có hai, ba anh em trong Ban chấp hành Hội KQ Victoria được đọc, các thành viên trong Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống ở Úc (cựu quân nhân, giới trẻ, các nhà hoạt động nhân quyền...) cũng được biết phần nào qua những lần thăm LT trong tù và được nghe chính anh nói ra.
Đáng buồn, đáng tiếc nhất là việc LT tố cáo Đại tá Võ Văn Ân lem nhem tiền bạc (quỹ yểm trợ LT).
Sự thật ra sao, khi gặp lại nhau dưới suối vàng chắc hẳn ông Ân và LT đã nói chuyện phải trái với nhau, ở đây tôi chỉ muốn đề cập tới hậu quả.
Không hiểu ở Hoa Kỳ thì sao nhưng riêng tại Úc việc LT tố cáo “Sư phụ” ngày ấy đã khiến anh mất đi nhiều người ủng hộ vốn mến phục ông Ân, trong đó có một nữ thành viên trẻ của Ân Xá Quốc Tế từng sang Rayong dự phiên tòa và thăm LT. Cô đòi lại 3000 đô-la Úc đã tặng cho “Quỹ pháp lý” yểm trợ LT trước đây, và trao số tiền này cho Hội KQ Victoria sử dụng trong việc... đi thăm LT. Nghĩa là cô vẫn ủng hộ lý tưởng của LT nói riêng, của Không Quân nói chung nhưng không muốn dính dáng tới cá nhân LT nữa!
Càng đáng buồn là trong khi “gây sự” với người phe ta, LT lại giao hảo với một số thành phần “bất hảo” trong giới truyền thông ở Úc, những kẻ lợi dụng tên tuổi LT để trục lợi. Họ là những người đứng bên lề, hoặc chuyên đánh phá Cộng Đồng, từ ngày LT bị nhà cầm quyền Thái Lan bắt giam cho tới khi ra tòa lãnh án, họ chưa một lần đi thăm LT hoặc tham dự các phiên tòa.
Chỉ sau khi LT lãnh án tù, có quy chế thăm viếng, cùng với một số đồng bào ái mộ LT khi du lịch Thái Lan đã về Rayong thăm anh, những tay ma đầu này mới... ra tay nghĩa hiệp. Những lần thăm viếng, những món quà nhân dịp tết nhất, những bài báo xưng tụng, những hứa hẹn yểm trợ tài chánh..., đã khiến LT cảm kích, đáp lại bằng những lá thư cám ơn, những tấm hình có chữ ký đề tặng..., khiến không ít đồng bào ở Úc đã ngây thơ tin vào “lòng tốt” của đám ma đầu này, thậm chí có người còn tin rằng tập thể Không Quân Úc Châu và LT đã chia tay nhau!
Trên thực tế, không chia tay nhưng cũng không còn mặn nồng!
Khi LT sang thăm Úc lần thứ hai (sau khi mãn án tù tại Thái Lan) năm vào 2008, những anh em KQ có chân trong Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống vẫn chu toàn bổn phận (đón tiếp, lo phương tiện di chuyển, chỗ ăn chỗ ở, v.v...), những đã không có những party linh đình do KQ đứng ra tổ chức để chào đón người hùng “Ó Đen” như lần trước (năm 1998).
Một chi tiết nhỏ nhưng thiết nghĩ cũng phải ghi ra để mọi người thấy LT dễ tin người tới mức nào, đó là việc trong khi được một số đồng hương ái mộ tặng “phong bì”, LT đã bị hụt 5000 đô-la "tưởng tượng" mà một ông nhà báo “giáo sư tự phong” kiêm “đồng hương Thừa Thiên - Huế tự nhận" từng tới nhà tù Rayong thăm anh, đã hứa hẹn trước khi anh sang thăm Úc lần này.
Sau khi tới Úc được mấy ngày mà vẫn không thấy ông chủ báo tới gặp gỡ trong những buổi đón tiếp mình, LT hỏi chúng tôi có biết tay chủ báo này không; nghe tên, chúng tôi hỡi ơi, nhưng cũng không nỡ cho LT biết bộ mặt thật của tay đại bịp này. Vì thế, tới ngày từ giã xứ kangaroo, trong lúc chờ phi cơ ở phi trường Melbourne, LT vẫn còn hy vọng biết đâu vào giờ phút chót ông chủ báo “đồng hương Thừa Thiên - Huế" sẽ ra phi trường tiễn mình (và trao phong bì).
Nhưng cho tới khi phi cơ cất cánh, khứa lão vẫn biệt tăm!
Khi kể lại những việc không vui nói trên, tôi hoàn toàn không có ý nói xấu LT, hạ bệ một “người hùng KQ” vốn được nhiều người cảm phục. Tôi chỉ muốn trình bày một điểm yếu nơi con người LT: thích được ca tụng không cần biết đối tượng thuộc thành phần nào, đưa tới nhiều hệ lụy trong đời.
Tôi không đạo đức giả mà viết từ đáy lòng: dù không đồng ý với chủ trương “phải thực hiện những biện pháp gây rối loạn mang tính cách dân sự (civil disobedience) thì mới tạo tiếng vang cho chính nghĩa được” (nguyên văn lời anh), tôi vẫn phải nể phục tinh thần chống cộng và sự can đảm nơi anh. Càng nể phục thì lại càng phải đau lòng, bất mãn khi thấy cho tới những ngày tháng cuối đời, bị bệnh tật hành hạ, nằm chờ chết mà LT vẫn không được buông tha; bị người này lợi dụng tên tuổi để quảng cáo cho thần dược của tay “tỷ phú đãi tiệc có tôm hùm”, bị nhóm kia kể lể công lao hầu độc quyền lo hậu sự lấy tiếng, v.v...
Thậm chí anh còn bị một vài trang mạng “phe ta” trù ẻo, cho... chết sớm cả tuần lễ. Để “câu view”, dĩ nhiên!
(Còn tiếp)
CHÚ THÍCH
”Đại tá” Nguyễn Phúc Tửng!
Cấp bậc sau cùng của ông Nguyễn Phúc Tửng trước khi được biệt phái sang Air Vietnam là Trung tá, nhưng ngày ấy (sau năm 1975) cũng như hiện nay không ít người ngoài Không Quân đã gọi ông là Đại tá. Điển hình là hầu hết các bản tin trên báo chí Việt ngữ ở Âu Châu đều ghi là Đại tá, trên trang mạng “General Hiếu” cũng ghi là Đại tá.
Trong khi đó ông Tửng khẳng định với chúng tôi chưa bao giờ ông tự xưng Đại tá. Riêng tôi thì suy diễn như sau:
Trong tiếng Anh cũng như tiếng Pháp, Đại tá là Colonel, Trung tá là Lieutenant Colonel (thường được viết tắt là Lt Colonel). Tuy nhiên, theo thông lệ, chỉ trong các văn bản chính thức (formal), hoặc xướng “tittle” trong một buổi lễ, người ta mới viết, nói đầy đủ là “Lieutenant Colonel”, còn trong thư từ, hoặc khi đối thoại người ta thường gọi ngắn gọn là “Colonel”.
Tương tự chữ General của cấp tướng, trên các văn bản chính thức phải ghi đầy đủ là Brigadier General (Chuẩn tướng), Major General (Thiếu tướng), Lieutenant General (Trung tướng), General (Đại tướng), General of the Army (Thống tướng) nhưng trong thư từ, khi đối thoại, người ta chỉ gọi ngắn gọn là “General” cho cả năm cấp bậc.
Ngày tôi làm việc dưới quyền Chuẩn tướng Từ Văn Bê, các thư từ gửi cho ông từ phía đối tác (các vị tướng 3, 4 sao của Hoa Kỳ, Trung hoa Quốc Gia), trong khi ngoài bì thư luôn luôn ghi đầy đủ:
Brigadier General TU VAN BE
Commander, Air Logistics Command, VNAF
thì trong thư chỉ viết ngắn gọn:
Dear Geneal Be,
Trở lại với ông Nguyễn Phúc Tửng, mọi người cứ gọi ông là Colonel riết rồi những người mới quen biết cứ tưởng cấp bậc thực sự của ông là Đại tá; truyền thông và những người không quen biết cứ như thế mà gọi theo.
Bản thân chúng tôi đã ít nhất đã ba lần được nghe, được đọc “Đại tá Nguyễn Phúc Tửng”.
Lần thứ nhất là trong cuộc nói chuyện với một vị nữ lưu hoạt động nhân quyền tại Pháp.
Lần thứ hai là đọc một bản tin tiếng Việt nói về hoat động của Văn Phòng Liên Lạc các Hội đoàn người Việt tại Pháp có chú thích hình: LS Vương Văn Bắc, Đt Nguyễn Phúc Tửng, Trg Tướng Trần Văn Trung
Lần thứ ba là đọc được trên Internet, trang mạng “General Hiếu”, viết:
Đại tá Nguyễn Phúc Tửng
Khóa 53E Không quân Việt Nam Cộng Hòa (*), người thành lập Phi đoàn 116 và là vị chỉ huy trưởng đầu tiên của phi đoàn này.
(*) Viết “Khóa 53E” là sai. Ông Nguyễn Phúc Tửng xuất thân Khóa 52F2 Marrakech, cùng khóa với các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Lưu Kim Cương...
“Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
(tiếp theo)
Qua ngày hôm sau, ông Ân có cuộc gặp gỡ với một nhân vật quan trọng là vị Tổng lãnh sự Mỹ tại Rayong (hay Pattaya, tôi không nhớ rõ) để vận động Tòa Đại sứ Mỹ gây áp lực với nhà cầm quyền Thái Lan bác bỏ yêu cầu của CSVN dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Đây là một bí mật mà ông Ân căn dặn tôi phải tuyệt đối giữ kín cho nên trong những bài tường thuật sau đó trên tờ báo tôi cộng tác cũng như trên đặc san LÝ TƯỞNG Úc Châu, tôi đã không hề đề cập tới.
Nguyên vị Tổng lãnh sự này có vợ người Thái Lan mà bằng cách nào đó ông Ân quen biết. Bà vợ này rất cảm phục sự can đảm của LT, sự tận tụy của ông Ân nên đã đề nghị chồng giúp đỡ.
Để tránh sự dòm ngó của phe địch (cũng như truyền thông phe ta) đôi bên đã thỏa thuận lựa chọn một địa điểm ít ai ngờ tới: ăn tối tại một nhà hàng all-you-can-eat ở ngay trung tâm du lịch gần bãi biển Rayong.
Đó là tầng trên cùng của một building 21 tầng sát bờ biển nhìn ra vịnh Thái Lan. Khu vực lấy thức ăn có nhân viên phục vụ chu đáo, khu ăn uống có những bàn ngồi rất riêng tư, kín đáo, ngoài ban-công thì có các lò BBQ và bàn ghế để khách có thể ăn vừa ngắm vịnh Thái Lan.
Thực ra ông Ân, ông Tửng có thể để tôi ở nhà, ra chợ Rayong ăn tối một mình nhưng có lẽ hai ông cũng muốn cho thằng em được thưởng thức “all-you-can-eat 5 sao” nên dắt theo.
Phần tôi, hiểu được tính cách tế nhị của cuộc gặp gỡ kín đáo này, sau khi chào hỏi, ăn uống qua loa tôi xin phép ra ban-công ăn BBQ, hút thuốc, mục đích để bốn người còn lại được nói chuyện thoải mái.
Lúc đó màn đêm đã buông xuống, nhìn ra biển chỉ thấy ánh đèn lấp lánh trên những chiếc du thuyền. Bỗng dưng tôi cảm thấy trống vắng và nhớ Việt Nam một cách lỳ lạ. Khi bước xuống thuyền vượt biên năm 1981, tôi đã thề không bao giờ trở lại một khi quê hương còn bóng cờ đỏ. Cuối năm 1999, khi bố tôi qua đời sau hơn 2 năm bị ung thư nằm chờ thằng trưởng nam về trăn trối mà không thấy tăm hơi, tôi đau buồn vô cùng nhưng vẫn không cảm thấy nhớ nhà như lúc này. Có lẽ trong màn đêm tôi có thể tưởng tượng Việt Nam ở thật gần, ngay đâu đây.
Tôi không cường điệu mà thật sự trước đó cũng như sau này tôi chưa bao giờ có cảm tưởng mình gần Việt Nam, nhớ Việt Nam như lúc ấy!
* * *
Một tuần lễ trôi qua rất nhanh, buổi tối cuối cùng ở Rayong “thằng nhỏ Bắc kỳ cái gì cũng biết làm” lấy đôi đũa khui chai vang đỏ thứ hai mà ông Tửng mang từ Pháp qua.
Rất tiếc trong buổi tối trước khi chia tay ấy tôi đã không có được một “cử chỉ đẹp” để rồi sau này mỗi lần nhớ tới hai vị đàn anh đáng mến tôi lại phải áy náy, ân hận.
Đó là việc “ăn đồng chia đều”. Sau bữa ăn tối, khi ông Ân nói tôi tổng kết chi tiêu của ba anh em từ lúc đặt chân lên taxi từ Bangkok đi Rayong, lẽ ra tôi phải cưa đôi, tôi chịu một nửa hai ông chịu một nửa mới là biết điều, bởi vì chi phí (công vụ) của tôi do quỹ Hội Không Quân Victoria đài thọ, trong khi ông Tửng phải bỏ tiền túi ra vì Hội Không Quân ở Pháp không hề có quỹ.
Nguyên nhân khiến tôi ngay lúc đó không nghĩ tới việc chơi đẹp với hai đàn anh là vì trong nội bộ Hội KQ Victoria có một sự “cạnh tranh” ngầm giữa những người được Hội cử đi Thái Lan thăm LT, xem ai đỡ hao quỹ nhất!
* * *
Sáng hôm sau, ba anh em đi bộ ra bến xe đò Rayong – Bangkok, ông Ân hướng dẫn tôi mua vé rồi dặn dò đường đi nước bước khi về tới Bangkok, không quên trao cho tôi miếng giấy ghi tên phi trường Don Mueang bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Thái. Ông còn chu đáo cho tôi biết trong phi trường có “lockers” để cất hành lý trong trường hợp tôi muốn đi tới trung tâm thương mại gần đó để mua sắm.
Trong lúc chờ tới giờ xe chạy, ba anh em tiếp tục trò chuyện. Khi tôi hỏi hai ông có tính sang thăm Úc không, ông Tửng nói chắc chắn ông sẽ sang trong một ngày rất gần vì vợ ông có người em ruột ở Melbourne, ông Ân thì nói phải đợi tới khi vụ xử LT kết thúc ông mới nghĩ tới việc đi Pháp, đi Úc để thăm và cám ơn anh em Không Quân.
Ông Ân nhấn mạnh chỉ thăm và cám ơn anh em KQ mà thôi vì trên danh nghĩa ông chỉ là một đàn anh KQ đứng ra lo cho đàn em cũ chứ không nằm trong một hội đoàn, tổ chức mang danh xưng “yểm trợ LT” nào cả.
Dù ông Ân không đi vào chi tiết, tôi cũng có thể suy đoán đã có những chuyện không vui giữa một số hội đoàn, tổ chức và cá nhân yểm trợ LT ở bên Mỹ trong việc tranh giành “chính danh”!
Sau cùng, có lẽ mủi lòng trước cảnh thằng em KQ lủi thủi về Úc một mình, ông Tửng đã bật mí với tôi về nhiệm vụ của ông trong chuyến đi Thái Lan, đó là chuyển lá thư của Công chúa X, con gái cựu hoàng Bảo Đại, tới bạn của bà là Công chúa Y, con gái lớn của Quốc vương Bhumibol và cũng là một nhà hoạt động xã hội uy tín, để nhờ can thiệp với chính phủ Thái Lan không cho dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Ông Tửng nói bữa trước ông không có mặt trong cuộc gặp gỡ vị luật sư Thái là vì có hẹn gặp gỡ một người thân cận của Công Chúa Y đang ở Rayong để nhờ chuyển lá thư của Công chúa X.
Ông Tửng cho biết ông được trao nhiệm vụ quan trọng này là vì từ năm 1975 ông đã tham gia hoạt động trong tập thể người Việt quốc gia tại Paris nói riêng, tại Pháp nói chung, và hiện đang giữ chức vụ Tổng Thư Ký Văn Phòng Liên Lạc các Hội đoàn người Việt tại Pháp. (Chú thích)

Từ trái: cựu Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc, ông Nguyễn Phúc Tửng, cựu Trung tướng
Trần Văn Trung trong một cuộc biểu tình tố cáo Trung Cộng tại Paris vào năm 2007
Trần Văn Trung trong một cuộc biểu tình tố cáo Trung Cộng tại Paris vào năm 2007
Nghe ông Tửng kể đầu đuôi, tôi càng thêm quý mến vị niên trưởng mà lúc mới gặp tôi đã hấp tấp nhận xét là “lạnh lùng, khó chịu”!
Xe đò chuyển bánh, nhìn hai đàn anh KQ – một đi cà nhắc, một mới mổ tiền liệt tuyến – vẫy tay chào, lòng tôi chùng xuống...
* * *
Về tới bến xe Bangkok, tôi gọi taxi tới phi trường Don Mueang. Vì còn cả một buổi chiều chờ phi cơ đi Úc, tôi tới khu “lockers” gửi hành lý rồi kêu taxi tới trung tâm thương mại gần đó mà ông Ân đã chỉ. Khi biết tôi là du khách, người tài xế taxi hỏi tôi dự tính muốn mua những thứ gì, tôi trả lời chưa biết thì anh ta đề nghị đưa tôi tới một trung tâm thương mại khác, xa hơn không bao nhiêu nhưng lớn hơn, có đủ loại mặt hàng, mà giá lại rẻ hơn.
Tôi nghe theo, tới nơi mới thấy người tài xế taxi nói không ngoa, từ thời trang, mỹ phẩm tới máy móc, đồ điện tử không thiếu một thứ gì, nhiều đến nỗi đi lên đi xuống 4, 5 tầng lầu mấy lần mà tôi vẫn không biết mua món gì với mấy trăm đô-la còn lại trong túi.
Thực ra ngay từ đầu tôi đã muốn mua một cái máy chụp hình digital nhưng vì ở đây có quá nhiều hiệu, nhiều kiểu, tôi lại không có sự chuẩn bị, nghiên cứu trước nên không biết nên mua máy nào; cuối cùng tôi chỉ mua một cái nồi cơm điện hiệu National (Panasonic) giá 100 đô-la để lấy điểm với bà xã vì cái nồi hiệu Tiger ở nhà đã quá cũ. Hơn 15 năm sau, khi LT đã hóa người thiên cổ, cái nồi “made in Thailand” ấy vẫn không chịu hư!...
* * *
Tới đây xin được tóm tắt diễn tiến, kết quả vụ xử LT về 3 tội danh Đe dọa tính mạng công dân Thái Lan - Cưỡng ép sử dụng máy bay trái với mục đích ban đầu - Vi phạm luật xuất nhập cảnh Thái Lan.
Vụ xử diễn ra đúng vào ngày lễ Giáng Sinh năm 2003. Theo vị luật sư biện hộ cho LT, trong ba tội danh bị cáo buộc chỉ có tội danh thứ ba (Vi phạm luật xuất nhập cảnh Thái Lan) là chính xác, hai tội danh còn lại chỉ đúng... một nửa vì LT đã không sử dụng vũ khí để uy hiếp phi công, để cướp phi cơ thì không thể khép vào tội “không tặc” như công tố viện Rayong đã cáo buộc.
Kết quả, LT chỉ bị tuyên án mức thấp nhất: 7 năm tù; và vì thời gian thọ án được tính từ ngày bị bắt (đầu năm 2000), LT sẽ được trả tự do vào cuối năm 2007.
Nhưng chế độ CSVN đã không chịu khoanh tay nhìn TL được trả tự do, được người Việt chống cộng tại hải ngọai một lần nữa chào đón như một người hùng, một “Chiến sĩ Tự do” (Freedom Fighter)!
Cũng xin được nhắc lại, cuối năm 2000, sau khi LT thả truyền đơn trên không phận VN trở về và bị cảnh sát Thái Lan bắt giữ, CSVN đã làm lớn chuyện, cho Bộ Công An khởi tố bị can LT theo luật hình sự, ban hành quyết định truy nã quốc tế, và yêu cầu nhà chức trách Thái Lan cho dẫn độ LT về Việt Nam để xét xử theo luật pháp của CSVN, nhưng phía Thái Lan đã tìm mọi cách trì hoãn việc trả lời yêu cầu này, và cuối cùng lơ luôn!
Nay vì Thủ tướng Thaksin Sinawatra đã bị phe quân đội đảo chánh vào đầu năm 2006, tướng Surayud Chulanont, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Thái Lan lên giữ chức Thủ tướng lâm thời, đang tìm mọi cách bình thường hóa quan hệ ngoại giao với CSVN, chuẩn bị đi Hà Nội tham dự Hội nghị APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương) vào tháng 11 năm 2006, phía CSVN đã nhân cơ hội này yêu cầu tân chính phủ Thái Lan sau khi LT mãn án tù 7 năm về các vi phạm luật pháp Thái Lan, cho dẫn độ anh về VN để bị xét xử về tội “xâm nhập không phận VN, một quốc gia có chủ quyền”.

Thủ tướng Thái Lan Surayud Chulanont và Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tại Hà Nội năm 2006
Trước sự việc này (yêu cầu dẫn độ của CSVN), LT đã tuyệt thực tại nhà tù Rayong để phản đối và kêu gọi các tổ chức nhân quyền quốc tế gây áp lực với chính phủ Thái Lan, nhưng vô ích, tới ngày 4 tháng 9 năm 2006, tòa hình sự Bangkok đã quyết định sẽ cho dẫn độ LT về VN sau khi mãn án 7 năm tù.
Khỏi nói, phía CSVN vô cùng hồ hởi phấn khởi; phát ngôn viên Chính phủ Việt Nam đã hoan nghênh quyết định này của tòa hình sự Thái Lan và nói “hành động của Lý Tống cần phải bị nghiêm trị”!
Về phần LT, thông qua luật sư đại diện đã đệ đơn kháng án, và tới ngày 26 tháng 9 năm 2006, đơn kháng án của anh đã được tòa phúc thẩm chấp thuận.
Nhưng chấp thuận rồi để đó chứ không chịu ấn định ngày xử. Thật khó hiểu!
Mãi sau này người ta mới biết phiên tòa ngày 4 tháng 9 năm 2006 ấy (quyết định cho dẫn độ LT về VN) chỉ là cảnh mở màn của một “kịch bản chính trị” với những diễn tiến bất ngờ và vô cùng thú vị (với những người chống cộng).
Sở dĩ tòa án Thái Lan chấp thuận đơn kháng án của LT rồi lại để đó là vì họ muốn chờ Thủ tướng Thái Lan đi dự Hội Nghị APEC xong xuôi.
Vì thế sau khi Thủ tướng Thái Lan Surayud Chulanont được Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp trọng thể tại Hà Nội, Thông cáo trên website của Bộ Ngoại Giao CSVN khi nhắc tới “những sự hợp tác tốt đẹp mà đôi bên đã đạt được trong thời gian qua”, không quên nhắc tới việc Thái Lan chấp thuận cho dẫn độ LT về VN:
“Phía Việt Nam hoan nghênh phán quyết của tòa án hình sự Băng Cốc quyết định trao Lý Tống cho Việt Nam xét xử".
Phải đợi ba tháng sau Hội Nghị APEC, tòa phúc thẩm Bangkok mới xét đơn kháng án của LT.
Kết quả, sau phần trình bày của luật sư biện hộ, ngày 3 tháng 4 năm 2007, tòa phúc thẩm Bangkok đã tuyên bố hành động của LT mang tính chất chính trị chứ không phải là đe dọa an ninh, và dựa trên một điều luật của Thái Lan không cho dẫn độ những người “đang đối diện với các cáo buộc mang tính cách chính trị”, đã bác bỏ quyết định của tòa hình sự hồi tháng 9 năm 2006 cho dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Trong phán quyết của mình, ông Chánh án Wisarut Sirisingh viết:
"Những gì ông Lý Tống làm không gây ảnh hưởng về an ninh lãnh thổ Việt Nam. Thái Lan không dẫn độ những người đối diện các cáo buộc về chính trị."
Quả là một cái tát vào mặt chế độ CSVN. Ngay sau đó, phát ngôn viên Lê Dũng của Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã hậm hực tuyên bố:
“Phán quyết của Tòa phúc thẩm Băng Cốc là không công bằng, hoàn toàn trái với luật pháp Thái Lan, luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế, và không phù hợp với sự phát triển quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Thái Lan, cũng như đi ngược lại những nỗ lực chung trong việc phòng chống tội phạm và khủng bố ở khu vực và trên thế giới”.
Thế là ra khỏi nhà tù Rayong, LT trở về Hoa Kỳ như một người hùng – lần thứ hai!
* * *
Trở lại với bốn chữ “kịch bản chính trị” mà tôi sử dụng ở trên khi viết về kết quả hai phiên tòa - mà phía CSVN cho là “tiền hậu bất nhất” - của Thái Lan trước yêu cầu của nhà cầm quyền CSVN cho dẫn độ LT về VN xét xử.
Tại sao trước đó, ngày 4 tháng 9 năm 2006, tòa hình sự Bangkok đã phán quyết cho dẫn độ LT về VN mà mấy tháng sau phán quyết này lại bị tòa phúc thẩm bác bỏ?!
Luật pháp, nhất là những gì có liên quan tới một vụ án có tầm vóc quốc tế, đâu phải trò đùa!
Ngày ấy qua nghe, đọc bình luận của các đài phát thanh BBC, Á Châu Tự Do, tôi (và nhiều người) tin rằng lúc đầu chính phủ Thái Lan quyết định cho dẫn độ LT về VN là để bày tỏ thiện chí trong việc bình thường hóa bang giao với quốc gia cộng sản này, nhưng sau đó vì có sự can thiệp của Hoa Kỳ và sự phản đối mãnh liệt của cộng đồng người Việt chống cộng ở hải ngoại, Thái Lan đã phải quay một góc 180 độ, thả LT về Hoa Kỳ.
Chỉ sau khi đọc những bài phân tích của các nhà báo tây phương, tôi mới biết đây là một “kịch bản” đã được phía Thái Lan viết sẵn từ năm 2003, khi “công dân Mỹ” LT ra tòa án Rayong để lãnh án.
Cũng cần nhấn mạnh, trước sau nhà cầm quyền Mỹ chỉ xem LT như một tay “không tặc” (hijacker), tức là không thể công khai bênh vực, nhưng đồng thời xưa nay Hoa Kỳ - đệ nhất cường quốc - cũng không chấp nhận việc công dân Mỹ bị một chế độ cộng sản xét xử.
Thành thử có cho ăn kẹo, Thái Lan cũng không dám cho dẫn độ LT về VN. Suy ra việc tòa hình sự Bangkok trong phiên xử ngày 4 tháng 9 năm 2006 phán quyết cho dẫn độ LT về VN chỉ là một màn trình diễn không hơn không kém!
Viết là “trình diễn” bởi vì chính phủ Thái Lan muốn chứng tỏ cho mọi phía (CSVN cũng như quốc tế) thấy tòa hình sự của họ đã chấp thuận cho dẫn độ LT về VN, nhưng cuối cùng lại bị tòa phúc thẩm bác bỏ. Mà sống trong một quốc gia thượng tôn pháp luật, tòa án (tư pháp) là cha mẹ, chính phủ (hành pháp) không có quyền can thiệp.
Nói cách khác, có hay không có sự phản đối, các cuộc vận động của người Việt chống cộng tại hải ngoại, tòa phúc thẩm Bangkok cũng sẽ bác bỏ phán quyết của tòa hình sự cho dẫn độ LT về VN.
Khi viết như thế, tôi không phủ nhận công sức của các hội đoàn, tổ chức và cá nhân người Việt chống cộng tại Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu, Úc Châu, trong đó có hai vị niên trưởng KQ Võ Văn Ân, Nguyễn Phúc Tửng, mà chỉ muốn chứng minh một điều: “đế quốc Mỹ” là ông kẹ!
* * *
Tới đây viết về quan hệ giữa hai vị niên trưởng KQ và LT trong thời gian anh bóc lịch trong nhà tù Rayong, từ đầu năm 2004 tới cuối năm 2007.
Cả ba "anh em Không quân" hiện nay đã về bên kia thế giới, cho nên khi nhắc lại chuyện cũ tôi tự đặt cho mình một giới hạn: không nói xấu hay chê trách người đã khuất mà chỉ tóm tắt một số sự việc có thật liên quan tới chuyện “rã đám” giữa LT và “Sư phụ”, giữa LT và anh em KQ ở Úc, còn tình tiết tôi và anh em KQ sống để bụng chết mang theo.
(“Anh em KQ ở Úc” nhắc tới ở đây xin được hiểu là anh em KQ trong Hội Ái Hữu Không Quân tiểu bang Victoria, cách riêng Ban chấp hành Hội, lúc đó đang kiêm nhiệm Ban chấp hành Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu, nhiệm kỳ 2002-2005)
Không phải tôi khoe khoang, ca tụng “phe ta” nhưng trên thực tế ngay từ đầu - tức là từ ngày thành lập Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống (Victoria) vào năm 1992 - cho tới khi đón LT sang thăm Úc lần thứ nhất (1998), chúng tôi ủng hộ LT hết mình nhưng không muốn bị mang tiếng "dựa hơi" hoặc lợi dụng tên tuổi LT cho nên đã hoàn toàn độc lập, về tổ chức, hoạt động cũng như tài chánh, không lệ thuộc, dính dáng tới bất cứ hội đoàn, tổ chức và cá nhân yểm trợ LT ở Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới (ngoài nước Úc).
LT biết rõ điều đó và, ít nhất cũng trong thời gian đầu, đã tỏ ra thân thiết, nể phục chúng tôi, và rất biết ơn đồng bào ở Úc về sự đóng góp mạnh mẽ vào quỹ Phát Huy Tinh Thần Lý Tống, Quỹ pháp lý yểm trợ LT.
Nhưng mọi sự bắt đầu thay đổi ít lâu sau khi sau khi LT bị tuyên án 7 năm tù và ngồi bóc lịch trong nhà tù Rayong.
Qua những lá thư gửi cho anh Liên hội trưởng KQ Úc Châu, LT ngày càng tỏ thái độ bi quan trước viễn ảnh sau khi mãn án tù ở Thái Lan sẽ bị dẫn độ về VN, và bất mãn trước việc (theo lời anh) mọi người, trong đó có các chiến hữu KQ, bỏ rơi anh, không chịu tiếp tục tranh đấu cho “lý tưởng”... Sự bi quan, mức độ bất mãn càng gia tăng, nội dung các lá thư càng gay gắt, thậm chí có những lời xỉ vả (anh em KQ hải ngoại) thậm tệ.
Dù những lá thư ấy chỉ có hai, ba anh em trong Ban chấp hành Hội KQ Victoria được đọc, các thành viên trong Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống ở Úc (cựu quân nhân, giới trẻ, các nhà hoạt động nhân quyền...) cũng được biết phần nào qua những lần thăm LT trong tù và được nghe chính anh nói ra.
Đáng buồn, đáng tiếc nhất là việc LT tố cáo Đại tá Võ Văn Ân lem nhem tiền bạc (quỹ yểm trợ LT).
Sự thật ra sao, khi gặp lại nhau dưới suối vàng chắc hẳn ông Ân và LT đã nói chuyện phải trái với nhau, ở đây tôi chỉ muốn đề cập tới hậu quả.
Không hiểu ở Hoa Kỳ thì sao nhưng riêng tại Úc việc LT tố cáo “Sư phụ” ngày ấy đã khiến anh mất đi nhiều người ủng hộ vốn mến phục ông Ân, trong đó có một nữ thành viên trẻ của Ân Xá Quốc Tế từng sang Rayong dự phiên tòa và thăm LT. Cô đòi lại 3000 đô-la Úc đã tặng cho “Quỹ pháp lý” yểm trợ LT trước đây, và trao số tiền này cho Hội KQ Victoria sử dụng trong việc... đi thăm LT. Nghĩa là cô vẫn ủng hộ lý tưởng của LT nói riêng, của Không Quân nói chung nhưng không muốn dính dáng tới cá nhân LT nữa!
Càng đáng buồn là trong khi “gây sự” với người phe ta, LT lại giao hảo với một số thành phần “bất hảo” trong giới truyền thông ở Úc, những kẻ lợi dụng tên tuổi LT để trục lợi. Họ là những người đứng bên lề, hoặc chuyên đánh phá Cộng Đồng, từ ngày LT bị nhà cầm quyền Thái Lan bắt giam cho tới khi ra tòa lãnh án, họ chưa một lần đi thăm LT hoặc tham dự các phiên tòa.
Chỉ sau khi LT lãnh án tù, có quy chế thăm viếng, cùng với một số đồng bào ái mộ LT khi du lịch Thái Lan đã về Rayong thăm anh, những tay ma đầu này mới... ra tay nghĩa hiệp. Những lần thăm viếng, những món quà nhân dịp tết nhất, những bài báo xưng tụng, những hứa hẹn yểm trợ tài chánh..., đã khiến LT cảm kích, đáp lại bằng những lá thư cám ơn, những tấm hình có chữ ký đề tặng..., khiến không ít đồng bào ở Úc đã ngây thơ tin vào “lòng tốt” của đám ma đầu này, thậm chí có người còn tin rằng tập thể Không Quân Úc Châu và LT đã chia tay nhau!
Trên thực tế, không chia tay nhưng cũng không còn mặn nồng!
Khi LT sang thăm Úc lần thứ hai (sau khi mãn án tù tại Thái Lan) năm vào 2008, những anh em KQ có chân trong Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống vẫn chu toàn bổn phận (đón tiếp, lo phương tiện di chuyển, chỗ ăn chỗ ở, v.v...), những đã không có những party linh đình do KQ đứng ra tổ chức để chào đón người hùng “Ó Đen” như lần trước (năm 1998).
Một chi tiết nhỏ nhưng thiết nghĩ cũng phải ghi ra để mọi người thấy LT dễ tin người tới mức nào, đó là việc trong khi được một số đồng hương ái mộ tặng “phong bì”, LT đã bị hụt 5000 đô-la "tưởng tượng" mà một ông nhà báo “giáo sư tự phong” kiêm “đồng hương Thừa Thiên - Huế tự nhận" từng tới nhà tù Rayong thăm anh, đã hứa hẹn trước khi anh sang thăm Úc lần này.
Sau khi tới Úc được mấy ngày mà vẫn không thấy ông chủ báo tới gặp gỡ trong những buổi đón tiếp mình, LT hỏi chúng tôi có biết tay chủ báo này không; nghe tên, chúng tôi hỡi ơi, nhưng cũng không nỡ cho LT biết bộ mặt thật của tay đại bịp này. Vì thế, tới ngày từ giã xứ kangaroo, trong lúc chờ phi cơ ở phi trường Melbourne, LT vẫn còn hy vọng biết đâu vào giờ phút chót ông chủ báo “đồng hương Thừa Thiên - Huế" sẽ ra phi trường tiễn mình (và trao phong bì).
Nhưng cho tới khi phi cơ cất cánh, khứa lão vẫn biệt tăm!
Khi kể lại những việc không vui nói trên, tôi hoàn toàn không có ý nói xấu LT, hạ bệ một “người hùng KQ” vốn được nhiều người cảm phục. Tôi chỉ muốn trình bày một điểm yếu nơi con người LT: thích được ca tụng không cần biết đối tượng thuộc thành phần nào, đưa tới nhiều hệ lụy trong đời.
Tôi không đạo đức giả mà viết từ đáy lòng: dù không đồng ý với chủ trương “phải thực hiện những biện pháp gây rối loạn mang tính cách dân sự (civil disobedience) thì mới tạo tiếng vang cho chính nghĩa được” (nguyên văn lời anh), tôi vẫn phải nể phục tinh thần chống cộng và sự can đảm nơi anh. Càng nể phục thì lại càng phải đau lòng, bất mãn khi thấy cho tới những ngày tháng cuối đời, bị bệnh tật hành hạ, nằm chờ chết mà LT vẫn không được buông tha; bị người này lợi dụng tên tuổi để quảng cáo cho thần dược của tay “tỷ phú đãi tiệc có tôm hùm”, bị nhóm kia kể lể công lao hầu độc quyền lo hậu sự lấy tiếng, v.v...
Thậm chí anh còn bị một vài trang mạng “phe ta” trù ẻo, cho... chết sớm cả tuần lễ. Để “câu view”, dĩ nhiên!
(Còn tiếp)
CHÚ THÍCH
”Đại tá” Nguyễn Phúc Tửng!
Cấp bậc sau cùng của ông Nguyễn Phúc Tửng trước khi được biệt phái sang Air Vietnam là Trung tá, nhưng ngày ấy (sau năm 1975) cũng như hiện nay không ít người ngoài Không Quân đã gọi ông là Đại tá. Điển hình là hầu hết các bản tin trên báo chí Việt ngữ ở Âu Châu đều ghi là Đại tá, trên trang mạng “General Hiếu” cũng ghi là Đại tá.
Trong khi đó ông Tửng khẳng định với chúng tôi chưa bao giờ ông tự xưng Đại tá. Riêng tôi thì suy diễn như sau:
Trong tiếng Anh cũng như tiếng Pháp, Đại tá là Colonel, Trung tá là Lieutenant Colonel (thường được viết tắt là Lt Colonel). Tuy nhiên, theo thông lệ, chỉ trong các văn bản chính thức (formal), hoặc xướng “tittle” trong một buổi lễ, người ta mới viết, nói đầy đủ là “Lieutenant Colonel”, còn trong thư từ, hoặc khi đối thoại người ta thường gọi ngắn gọn là “Colonel”.
Tương tự chữ General của cấp tướng, trên các văn bản chính thức phải ghi đầy đủ là Brigadier General (Chuẩn tướng), Major General (Thiếu tướng), Lieutenant General (Trung tướng), General (Đại tướng), General of the Army (Thống tướng) nhưng trong thư từ, khi đối thoại, người ta chỉ gọi ngắn gọn là “General” cho cả năm cấp bậc.
Ngày tôi làm việc dưới quyền Chuẩn tướng Từ Văn Bê, các thư từ gửi cho ông từ phía đối tác (các vị tướng 3, 4 sao của Hoa Kỳ, Trung hoa Quốc Gia), trong khi ngoài bì thư luôn luôn ghi đầy đủ:
Brigadier General TU VAN BE
Commander, Air Logistics Command, VNAF
thì trong thư chỉ viết ngắn gọn:
Dear Geneal Be,
Trở lại với ông Nguyễn Phúc Tửng, mọi người cứ gọi ông là Colonel riết rồi những người mới quen biết cứ tưởng cấp bậc thực sự của ông là Đại tá; truyền thông và những người không quen biết cứ như thế mà gọi theo.
Bản thân chúng tôi đã ít nhất đã ba lần được nghe, được đọc “Đại tá Nguyễn Phúc Tửng”.
Lần thứ nhất là trong cuộc nói chuyện với một vị nữ lưu hoạt động nhân quyền tại Pháp.
Lần thứ hai là đọc một bản tin tiếng Việt nói về hoat động của Văn Phòng Liên Lạc các Hội đoàn người Việt tại Pháp có chú thích hình: LS Vương Văn Bắc, Đt Nguyễn Phúc Tửng, Trg Tướng Trần Văn Trung
Lần thứ ba là đọc được trên Internet, trang mạng “General Hiếu”, viết:
Đại tá Nguyễn Phúc Tửng
Khóa 53E Không quân Việt Nam Cộng Hòa (*), người thành lập Phi đoàn 116 và là vị chỉ huy trưởng đầu tiên của phi đoàn này.
(*) Viết “Khóa 53E” là sai. Ông Nguyễn Phúc Tửng xuất thân Khóa 52F2 Marrakech, cùng khóa với các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Lưu Kim Cương...