BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)

Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện



“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”

(tiếp theo)

* Đại tá Vũ Thượng Văn – văn võ song toàn

Trong năm 2001, anh em Không Quân ở tiểu bang Victoria được hân hạnh đón tiếp cựu Đại tá Vũ Thượng Văn (VTV), nguyên Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình, BTL/KQ, từ Pháp sang thăm Úc.

Trước năm 1975, tôi chỉ được nghe tên tuổi NT VTV qua lời kể của ông Lê Bá Định khi ông đang giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, đồn trú tại phi trường Cù Hanh, Pleiku.

Nguyên từ khi được thành lập vào cuối năm 1970, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (cùng với Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku) tạm thời trực thuộc Sư Đoàn 2 KQ ở Nha Trang trong lúc chờ Sư Đoàn 6 KQ được thành lập tại Pleiku.

Tới khoảng đầu năm 1972, Trung tá Lê Bá Định (nguyên là Trưởng Khối CTCT Pleiku mà tôi là một nhân viên dưới quyền) bật mí cho tôi biết Đại tá VTV sẽ ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng SĐ6KQ.

Theo lời ông Định, Đại tá VTV xuất thân Trưởng Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, là một trong những phi công phản lực đầu tiên của KQVN (học ở bên Pháp), từng nắm giữ những chức vụ quan trọng tại BTL/KQ; là một người văn võ song toàn, ông rất xứng đáng giữ chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn cuối cùng của KQVN.

Xưa nay ông Lê Bá Định ít khi khen ai cho nên khi thấy ông hết lời ca tụng Đại tá VTV, tôi tin rằng ông VTV phải tài giỏi hơn người.

Tiếc thay, việc đó đã không xảy ra. Cuối năm 1972, Đại tá Phạm Ngọc Sang ra Pleiku nhận chức Sư đoàn trưởng SĐ6KQ (để rồi được vinh thăng Chuẩn tướng vào đầu tháng 4/1974).

Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang


Người thất vọng nhiều nhất trước việc bổ nhiệm này phải là ông Lê Bá Định.

Là một sĩ quan cấp úy, tôi không đủ tư cách nhận xét, đánh giá, phê bình các vị niên trưởng cho nên chỉ có thể viết có lẽ ông Lê Bá Định và ông Phạm Ngọc Sang “khắc tuổi” nhau, đưa tới việc vào một ngày không mấy đẹp trời nọ (thật ra ở Pleiku có ngày nào trời đẹp!), ông Lê Bá Định bị “dzăng” khỏi chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Trung tá Lê Văn Bút, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 229 Lạc Long lên thay.

Sau này tôi được nghe nhiều nguồn tin khác nhau về nguyên nhân khiến ngày ấy Đại tá VTV không ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng, chức vụ chắc chắn sẽ giúp ông lên tướng. Người thì nói ông VTV không muốn nhận trọng trách ở vùng Cao Nguyên, nơi tình hình chiến sự luôn luôn sôi động trong suốt cuộc chiến; người thì nói vì ông VTV giỏi về tham mưu, vào giờ phút chót Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ, đã can thiệp với Trung tướng Trần Văn Minh giữ ông Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình - tức Đại tá VTV - ở lại Tân Sơn Nhất.

* * *

Xét về xuất thân, vai vế trong quân chủng, tay nghề (bay bổng) có thể viết hai ông Phạm Ngọc Sang và VTV ngang cơ: cả hai đều xuất thân Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị, một người ở Thủ Đức một người ở Nam Định, sau khi thuyên chuyển sang Không Quân đều được xuất ngoại theo học tại những trường bay xịn nhất của Pháp.

Ông Phạm Ngọc Sang được gửi đi học Khóa 52F1 tại trường bay căn bản Marrakech (Morocco) cùng với các ông Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, tức là trước các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm học Khóa 52F2.

Sau khi solo (được gắn cánh bay) tại Marrakech, các ông Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Hữu Hiền, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, Huỳnh Bá Tính được tuyển đi học lái “phi cơ nhiều động cơ” tại Trường Vận Tải trong CCKQ Avord ở nội địa Pháp.

Theo lời NT Nguyễn Xuân Vinh (cũng dân Vận Tải), ngày ấy chỉ những người tốt nghiệp ưu hạng tại Marrakech mới được tuyển để học lái “phi cơ nhiều động cơ”, tức oanh tạc cơ/vận tải cơ có từ hai động cơ trở lên.

Tại Avord, các khóa sinh được huấn luyện trên vận tải cơ hạng nhẹ MD-312 Flamant; sau khi tốt nghiệp hoặc sẽ được đưa tới trường oanh tạc Blida (ở Algeria) thụ huấn trên phi cơ MD-315 về oanh tạc và tác xạ, hoặc được đưa tới các đơn vị vận tải trang bị phi cơ C-47 Dakota, ngồi ghế phi công phụ ít nhất sáu tháng, sau đó sẽ được tuyển tới trường CIET (viết tắt của tiếng Pháp Centre d’Instruction des Equipages de Transport: Trung tâm Huấn luyện Phi hành đoàn Vận tải) để được thụ huấn trở thành phi công chánh, có khả năng điều khiển phi cơ trong mọi điều kiện thời tiết.

Một chiếc MD-312 được phục hồi với cờ hiệu của KQVN


Hai hoa tiêu vận tải đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp trường CIET chính là ông Phạm Ngọc Sang và ông Huỳnh Hữu Hiền.

Trong khi đó ông VTV lại được theo học tại một quân trường danh giá là Trường Võ bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, và cùng với ông Nguyễn Ngọc Loan trở thành hai phi công phản lực đầu tiên của KQVN.

Nguyên sau khi tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định), rồi Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, ba Thiếu úy Nguyễn Ngọc Loan, VTV, Trần Đình Hòe được tuyển đi du học ở Pháp; hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV vào Trường Salon-de-Provence còn ông Trần Đình Hòe vào Trường Vận Tải Avord.

Sau giai đoạn tại Salon-de-Provence hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV được đưa tới Trường Khu Trục tại Meknès (Morocco) để học bay khu trục và phản lực (T-33 của Mỹ, Ouragan của Pháp, Vampire của Anh).

Chiến đấu cơ phản lực Ouragan của Pháp


[Ngày ấy, sau hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV còn có các ông Phạm Long Sửu, Trần Duy Kỷ, Nguyễn Quang Tri, Nguyễn Đức Khánh cũng được huấn luyện bay phản lực, vì theo dự trù (vào lúc bấy giờ) KQVN sẽ được Hoa Kỳ viện trợ các chiến đấu cơ phản lực như F-80 Shooting Star, F-86 Super Sabre]

Cũng theo lời Đại tá Nguyễn Quang Tri, sau khi ông Nguyễn Ngọc Loan về nước, ông VTV vẫn tiếp tục ở lại Pháp để học thêm các khóa về chiến thuật, tham mưu..., mãi tới cuối năm 1956 đầu năm 1957 mới về nước, và được ghi nhận là khóa sinh “tốn cơm quốc gia nhiều nhất”, nhập ngũ năm 1951 tới cuối năm 1956 mới... thành tài!

* * *

Về nước, ông VTV chỉ phục vụ một thời gian ngắn tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát (tiền thân của Phi Đoàn 514) rồi được đưa về Bộ Tư Lệnh KQ nắm giữ những chức vụ quan trọng.

Đầu năm 1965, khi đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center), ông VTV đã được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất, cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQ, và Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó.

[Việc xuyên huấn B-57 cho các hoa tiêu VN diễn ra tại CCKQ Clark, Phi-luật-tân, bắt đầu vào tháng 5/1964, với ba khóa sinh đầu tiên là Đại úy Nguyễn Ngọc Biện, Đại úy Nguyễn Văn Tường (Tường mực) và Đại úy Nguyễn Văn Long.
Vì vào thời gian này đã có một đơn vị B-57 của KLHK đồn trú tại Biên Hòa cho nên các ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan và VTV đang giữ những chức vụ quan trọng đã được xuyên huấn ngay tại Tân Sơn Nhất]

Oanh tạc cơ B-57 của Biệt Đội 615; Chỉ huy trưởng: Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện


Chức vụ sau cùng của Đại Tá VTV là Tham Mưu Phó Kế Hoạ̣ch & Chương Trình, BTL/KQ. Trong chức vụ này, cùng với Tham mưu trưởng BTL/KQ là Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, ông đã ra sức "bảo vệ" ưu tiên của KQVN trong chương trình hiện đại hóa và bành trướng của QLVNCH.

Trước năm 1975, tôi chỉ là một sĩ quan cấp úy lại không phục vụ tại BTL/KQ dĩ nhiên làm sao biết được công việc của Đại Tá VTV nếu như sau này ông không sang thăm Úc và bị... kẹt lại!

Nguyên vào cuối tháng 8 năm 2001, Đại tá VTV cùng phu nhân từ Pháp sang Melbourne thăm thân nhân và (dự trù) ngao du một vòng xứ Úc-đại-lợi. Được tin (qua một niên trưởng trước kia cùng định cư tại Pháp với NT VTV), Hội KQ Victoria đã tổ chức đón tiếp tại tư gia một hội viên.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được gặp NT VTV và đã mến phục ông ngay. Ông có dáng dấp thư sinh nho nhã, nói chuyện rất thu hút với một giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng không màu mè kiểu cách như nhiều người Hà Nội trung lưu trước 1954 mà tôi được biết.

Thật khó lòng mà tưởng tượng đây là một cựu hoa tiêu khu trục tài ba, từng lái chiến đấu cơ Ouragan, oanh tạc cơ B-57!

Chính vì con người đáng mến nơi NT VTV mà khoảng cách giữa một vị niên trưởng nhập ngũ năm 1951 và các đàn em KQ – “già” nhất là Khóa 64, cấp bậc cao nhất chỉ là đại úy – đã mau chóng thu hẹp trong bữa cơm tối thân mật đón tiếp hai ông bà.

Đáng nhớ nhất là việc NT không tiếc lời khen ngợi sự hiện diện đông đủ và tài nữ công gia chánh của các bà vợ KQ mà ông gọi là các “nàng dâu Không Quân”. Ông nói:

- Ở đâu cũng vậy, phải có các “nàng dâu Không Quân” tham gia thì Hội KQ ở đó mới đông vui, bền vững.

* * *

Riêng tôi, trong không khí thân mật đầy tình huynh đệ chi binh ấy đã không có được nhiều thời gian riêng tư với vị đại niên trưởng mà tôi có ý định... khai thác.

Nguyên vào khoảng thời gian này, cuối tháng 8/2001, Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu sau khi tham khảo ý kiến các vị niên trưởng ở khắp nơi đã quyết định thực hiện quyển Quân Sử Không Quân VNCH, dự trù ra mắt nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân chủng, 1/7/2005, và đã gửi thư mời gọi các niên trưởng, chiến hữu KQ cung cấp tư liệu, hình ảnh, và bài viết về đơn vị, ngành nghề của mình.

Thư vừa gửi đi thì NT VTV sang thăm Melbourne, quả là cơ hội bằng vàng. Vì thế sau khi không thể khai thác NT trong bữa cơm thân mật đón tiếp ông, tôi dự định xin phép ông cho tới thăm ông bà một buổi để hỏi ông những chuyện ngày xưa liên quan tới KQVN, trước khi hai ông bà trở về Pháp.

Và trời đã... chiều lòng người: vào ngày 11 tháng 9, 2001 xảy ra cuộc khủng bố kinh hoàng ở Hoa Kỳ, ông bà VTV bị kẹt lại ở Melbourne gần một tháng trời vì những thủ tục xuất nhập cảnh khó khăn tại các quốc gia Âu Mỹ.

Trước việc NT VTV bị kẹt lại, Hội KQ Victoria đã quyết định tổ chức buổi kỳ họp định kỳ đệ III tam cá nguyệt sớm hơn thường lệ để vừa... cúng cô hồn vừa giỗ Trung tướng Trần Văn Minh (qua đời ngày 27/8/1997) và mời NT VTV tới chủ trì.

Buổi họp được tổ chức tại tư gia KQ Nguyễn Ngọc Bảo (PĐ245), Hội phó Nội vụ, rộng rãi thoáng mát, có heo quay, có cả... thầy cúng là Nguyễn Ngọc Bảo phu nhân (trong Ban hộ niệm chùa Hoa Nghiêm ở gần đó)...

Cúng cô hồn trong buổi họp đệ III TCN 2001 của Hội KQ Victoria. NT VTV mặc jacket da đứng giữa hình


Vì đường xá xa xôi, phu nhân của NT VTV không thể tháp tùng chồng, cho nên anh em đã cho người tới đón NT hơi sớm để tôi và anh em trong Ban thực hiện Quân Sử Không Quân có nhiều thời gian trò chuyện với ông.

Trước hết, khi được biết dự định của anh em KQ Úc Châu, ông đã ra sức khuyến khích vì theo ông đây là một công việc vô cùng cần thiết mà trước năm 1975 ở BTL/KQ không ai chịu nghĩ tới!

Thực ra, theo lời NT VTV, trước năm 1975, tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Kế Hoạch & Chương Trình BTL/KQ cũng có một Tiểu Ban Quân Sử nhưng không được mọi người quan tâm tới. Có lần Tiểu Ban này thỉnh cầu ngân khoản để mua một cái máy chụp hình thì bị bác với lý do “không có trong bảng cấp số”!

Về tài liệu để biên soạn quyển QSKQ, theo ông hiện nay trên Internet có khá nhiều bài viết công phu của cá nhân hay tập thể cựu quân nhân KQ tuy nhiên lại có những mâu thuẫn, do nguồn tài liệu tham khảo cũng như do trí nhớ của người trong cuộc, cần phải đối chiếu, kiểm chứng, và tham khảo với các bậc “tiền bối” trong quân chủng.

Vì thế, ông rất đồng ý với cách tiến hành công việc của tôi là sau khi hoàn tất mỗi thời kỳ (thành lập, phát triển, bành trướng) sẽ đúc kết những khoảng trống (trong lịch sử quân chủng), những gì chưa rõ ràng, hoặc mâu thuẫn nhau (trong các nguồn tài liệu cũng như bộ nhớ của các niên trưởng) để phổ biến dưới hình thức những Thư tham khảo, hy vọng sẽ nhận được những lời giải đáp, sự bổ túc của các vị niên trưởng và chiến hữu KQ khắp nơi.

Riêng về phần mình, NT VTV cho biết vì về nước trễ (đầu năm 1957) nên ông không nắm vững những diễn tiến trong thời kỳ thành lập quân chủng Không Quân. Ông chỉ nhớ đại khái những gì liên quan tới bản thân ông: sau một thời gian ngắn phục vụ tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát, ông được đưa về BTK/KQ phục vụ tại Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center) lúc đó còn gọi là Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến, do Đại úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này) giữ chức vụ Giám đốc, Trung úy Nguyễn Ngọc Loan làm Phụ tá.

Sau đó, ông Nguyễn Ngọc Loan lên làm Giám đốc thay ông Trần Văn Minh. Chúng tôi không được biết giữa ông Nguyễn Ngọc Loan và ông VTV có đời Giám đốc nào khác hay không, chỉ biết vào đầu năm 1965, khi được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tá Nguyễn Ngọc Loan, Thiếu tá VTV đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân.

Tới năm 1970, trong đà bành trưởng của KQVN, cùng với việc các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, Trung Tâm Hành Quân Không Quân được nâng lên thành Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command).

Đại tá Vũ Văn Ước, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật ngoài Nha Trang được đưa về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng còn Đại tá VTV thì sang BTL/KQ giữ chức vụ Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình.

* Những cuộc đấu võ mồm

Trong khi không nhớ nhiều về thời kỳ thành lập quân chủng, NT VTV lại biết nhiều và biết rất rõ về thời kỳ hiện đại hóa và bành trướng của KQVN, bởi vì ông là người trong cuộc.

Nguyên sau cuộc tổng tấn công của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân 1968, phía Hoa Kỳ bắt đầu chương trình hiện đại hóa và bành trướng QLVNCH, do MACV, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, và các đại diện quân binh chủng phối hợp soạn thảo kế hoạch.

Phái đoàn đại diện Không Quân do Đại tá Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng BTL/KQ cầm đầu, Đại tá VTV làm phó. Vì Đại tá Võ Dinh quá bận rộn với công việc thường nhật cùng với kế hoạch, chương trình bành trướng quân chủng, Đại tá VTV phải thường xuyên đi họp để... đấu lý với các quan lớn bên Bộ TTM và các phái đoàn đại diện quân binh chủng bạn.

Phải đấu lý bởi vì, theo lời kể lại của Đại tá VTV, trong các buổi họp nói trên, quân binh chủng nào cũng tìm cách giành ưu tiên, về ngân khoản viện trợ, về mức độ bành trướng, về cấp số đơn vị... cho quân binh chủng của mình.

Chẳng hạn lúc đầu Lục Quân đã nhất quyết đòi làm chủ trên 700 chiếc trực thăng UH-1 do Lục Quân Hoa Kỳ bàn giao để thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry Brigade) trực thuộc Lục Quân. Các vị đại diện Lục Quân lập luận: trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ thì phải bàn giao cho Lục Quân Việt Nam. Nghe thật có lý!

Nhưng đòi hỏi này đã bị MACV bác bỏ ngay; lý do người Mỹ đưa ra rất đơn giản: không có đủ thì giờ, tiền bạc để huấn luyện, thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ - một cấp đơn vị chưa từng có trong QLVNCH.

Đó là phần hiện đại hóa, sang tới phần bành trướng, khi đại diện KQ trình bày kế hoạch các Không Đoàn Chiến Thuật (Tactical Wing) hiện hữu cùng với các Không Đoàn tân lập sẽ kết hợp thành những Sư Đoàn Không Quân (Air Division), thì các vị bên Bộ TTM phản đối, cho rằng “Sư Đoàn” nghe lớn quá, gọi là “Lữ Đoàn” (Brigade) đủ rồi!

Đại diện của KQ - tức Đại tá VTV - liền phản bác một cách “nhẹ nhàng” như sau: việc tổ chức các cấp đơn vị trong Không Quân VNCH rập khuôn theo tổ chức trong KLHK, mà KLHK thì không hề có cấp đơn vị “Lữ Đoàn Không Quân” (Air Brigade), chỉ có cấp “Sư Đoàn Không Quân” (Air Division), chẳng hạn Sư Đoàn 2 KQ trực thuộc Đệ Thất Không Lực (7th Air Force) đang hoạt động tại Việt Nam.

Cuối cùng, với sự hậu thuẫn của AFAG (Air Force Advisory Group) trong MACV, phe ta đã thắng: Không Quân VN sẽ thành lập các Sư Đoàn Không Quân.

Nhưng không “thắng 100%”. Bởi vì sau đó, Bộ TTM đã “chế” ra một danh xưng chức vụ mới là “Sư đoàn trưởng” để gọi ông sếp lớn của các Sư Đoàn Không Quân.

Nói là “chế” bởi vì trước đó trong ngôn ngữ của người Việt quốc gia không hề có chức vụ “Sư đoàn trưởng”, chỉ có Quân Đội Nhân Dân của cộng sản Bắc Việt mới sử dụng (khi nói chuyện họ thường gọi tắt là “Sư trưởng”).

Dĩ nhiên, đại diện KQ lại phản đối, nhưng vô ích, bởi vì Bộ TTM lập luận quân số của một Sư Đoàn Không Quân không thể sánh với quân số của Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC hay các Sư Đoàn Bộ Binh!

Vì thế khi các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, các ông Tư lệnh Không Đoàn Chiến Thuật 41, 62, 23, 74, 33 đã trở thành các ông Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 Không Quân.

[Mãi tới cuối năm 1972 đầu năm 1973, sau khi Sư Đoàn 6 Không Quân được thành lập tại Pleiku, có lẽ đã nhận ra “Sư đoàn trưởng” là “từ Việt Cộng”, Bộ TTM mới ban hành Sự Vụ Văn Thư đổi danh xưng Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn Không Quân thành Tư lệnh Sư đoàn]

* * *

Sau khi NT VTV và phu nhân trở về Pháp, lâu lâu tôi lại gửi email thăm hỏi và được ông hồi đáp với văn phong dí dỏm cố hữu, có khi còn kể chuyện tới bãi biển ở Nice ngắm đầm khoe tòa thiên nhiên, nhưng sau khi ông bà sang Hoa Kỳ sống thì tôi mất liên lạc.

Khi cách đây khoảng hai tuần, tôi đang viết bài này thì được một KQ ở Hoa Kỳ báo tin NT VTV đã qua đời nhưng không cho biết thêm chi tiết. Sau đó tôi đã tìm cách liên lạc với một số niên trưởng và chiến hữu KQ ở Hoa Kỳ để hỏi thăm tin tức nhưng tới nay vẫn chưa có kết quả.

Theo lời một vị phi đoàn trưởng khu trục tôi quen thân, tin tức cuối cùng về NT VTV là cách đây hơn 2 năm, ông và NT Bồ Đại Kỳ có viết thư thăm hỏi nhau, sau đó thì bặt tin.

(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH

(1) Trong bài viết về Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command), Đại tá Vũ Văn Ước, Chỉ huy trưởng, không hề nhắc tới danh xưng “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, mà chỉ viết về Trung Tâm Hành Quân Không Quân, trong đó có các đoạn:

“Thời gian này KLVNCH đã có sẵn một số phi cơ Bearcat, T-28 và số ít A-1H... Vì nhu cầu phối hợp hành quân Việt-Mỹ để yểm trợ các lực lượng diện địa VNCH nên một trung tâm hành quân không quân (TACC) được thành lập tại TSN. Tại đây ban cố vấn Hoa Kỳ và các sĩ quan VN làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ bằng không quân...

“Vị sĩ quan chỉ huy đầu tiên của trung tâm là Đại Úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này), phụ tá là Đại Úy Nguyễn Ngọc Loan và trưởng phòng hành quân là tôi, Vũ Văn Ước.” (ngưng trích)

Trong khi theo một số bài viết của Đại tá Nguyễn Quang Tri, và tiểu sử của Trung tướng Trần Văn Minh, của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, danh xưng đầu tiên của trung tâm này là “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, có từ năm 1956 sau khi người Pháp trao toàn bộ trách nhiệm cho KQVN trong lúc người Mỹ chưa kịp điền vào chỗ trống.

Cũng nên biết trước năm 1956, công việc yểm trợ của không quân cho các lực lượng diện địa đều do các GATAC của Pháp điều động.

GATAC là viết tắt của tiếng Pháp “Groupe Aérien Tactique d'Appui Au Combat”, có nghĩa là “đoàn không yểm chiến thuật”.

Có tất cả ba GATAC: Nord, Centre, Sud, trách nhiệm ba miền Bắc, Trung, Nam.

Sau khi người Pháp rút, các GATAC giải tán, trách nhiệm không yểm được trao cho người Việt, KQVN thành lập “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” để thay thế.

Hai chữ “Không Chiến” ở đây không có nghĩa là “phi cơ đánh nhau trên trời” mà chỉ có nghĩa là “chiến đấu từ trên không”, tức “không yểm” (air support).

Sau khi người Mỹ nhập cuộc, các cố vấn trong KLHK và phía đối tác (KQVN) làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ chiến trường, thì “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” mới được đổi danh xưng thành “Trung Tâm Hành Quân Không Quân” (TACC: Tactical Air Control Center) theo cách gọi trong KLHK.

Thời gian này là đầu năm 1962, khi KLHK bắt đầu bí mật tham chiến qua Chương trình Farm Gate, và Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân là Đại úy Nguyễn Ngọc Loan (theo NT Trần Bá Hợi trong bài Phi Đoàn 2 Khu Trục).


PHỤ LỤC

TƯỞNG NHỚ Lăng CHA CẢ

*KQ Vũ Thượng Văn

Ðã là người Không Quân VNCH thì không ai mà không biết Lăng Cha Cả, ở xã Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình, tỉnh Gia Ðịnh. Tuy nhiên, cũng rất nhiều người Không Quân chỉ đi ngang qua Lăng Cha Cả để ra vào phi trường Tân Sơn Nhất, chưa chắc đã nhìn kỹ cái lăng đó hình dáng ra sao? Lại cũng không biết sự tích cái lăng ấy, và có lẽ cũng không biết lai lịch "Cha Cả" này là ai?

Lăng Cha Cả (hình chụp trước năm 1975)


Cả chục ngàn chiến sĩ Không Quân đã mua bánh mì Lăng Cha Cả, đặc biệt là dân Sư Ðoàn 5 KQ và Bộ Tư Lệnh Không Quân. Bánh mì ngon, nóng, rẻ, thường thêm một miếng ớt cay, ăn sáng trên máy bay là "hết xẩy". Nhưng cũng cả chục ngàn KQ ấy khi mua bánh mì thì quay lưng về phía Lăng Cha Cả, cho nên ngày nay có lẽ cũng chẳng nhớ cái lăng ấy ra sao. Ðể giúp các bạn ôn lại hình ảnh xưa, chúng tôi đã sưu tầm được tấm hình độc đáo nầy để các bạn cùng thưởng lãm. Thưởng lãm trong bùi ngùi, vì lăng nầy đã bị chính quyền VC phá bỏ năm 1983, viện lý do là để phát triển đô thị.


Cha Cả tên thật là Pierre Pigneau de Béhaine, sinh ngày 02 tháng 11 năm 1741, tại Origny-en-Thierache (Pháp Quốc). Sau khi học nhiều trường đạo các cấp, tu viện và chủng viện Missions Etrangères (Thừa Sai Ngoại Quốc), ông được thụ phong linh mục (prêtre) năm 1765, và được gửi qua Hà Tiên, Nam Kỳ (Cochinchine) để truyền giáo. Trong thời gian nầy, ông đã soạn thảo một cuốn tự điển lớn bằng tiếng Việt.

Nhưng phần vừa bị chính quyền đàn áp (ông phải đi tù một thời gian), vừa bị hải tặc khủng bố, nên sau đó, ông phải đóng cửa trường (mà ông là Hiệu trưởng), dọn về Pondicherry (Ấn Ðộ). Khi tình hình khả quan hơn, ông trở lại Hà Tiên. Lần trở lại này, năm 1774, ông được trao chức tổng quản giáo hội vùng Nam Kỳ, Căm Bốt và Chàm, với tước vị là Giám Mục d' Adran (Evêque d'Adran, Việt Nam gọi ông là Giám Mục Bá-Ða-Lộc).

Năm 1778, hải tặc Căm Bốt triệt hạ tỉnh đạo Hà Tiên, Ðức Cha Bá-Ða-Lộc phải rút về Sài Gòn, cư ngụ tại tư dinh Hoàng Tử Nguyễn Ánh. Năm 1782, Tây Sơn khởi nghĩa gây ra nhiều vụ tàn sát ở Sài Gòn. Sau khi vua cha bị giết hại, Nguyễn Ánh lên ngôi, cầu viện Xiêm La (Siam), nhưng quân Xiêm bị Tây Sơn đánh đại bại năm 1785. Nguyễn Ánh quay sang cầu viện Pháp qua trung gian của Giám Mục Bá-Ða-Lộc.

Năm 1786, Bá-Ða-Lộc mang ấn tín của vua Nam Kỳ (tức chúa Nguyễn Ánh) cùng Hoàng tử Nguyễn Cảnh rời Hà Tiên qua Pháp. Phái đoàn tới cảng Lorient ngày 26 tháng 02 năm 1787. Ngày 16 tháng 5, vua Louis XVI tiếp phái đoàn tại lâu đài Versailles. Một thỏa ước được ký kết giữa hai vương quốc tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm đó, giữa Bá tước de Montmorin, Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp quốc, và Giám Mục Bá-Ða-Lộc, Ðặc sứ toàn quyền của vua Nam Kỳ.

Tượng Giám mục Bá-Ða-Lộc và Hoàng tử Nguyễn Cảnh trước Nhà Thờ
Đức Bà, Sài Gòn (hình chụp thời Pháp thuộc)


Nhưng bản thỏa ước này sau đó đã không được áp dụng. Bá tước De Conway, Thống Ðốc Pháp tại các lãnh địa thuộc Ấn Ðộ đã từ chối thi hành thỏa ước.

Chờ ở Pondicherry khá lâu, Giám Mục Bá-Ða-Lộc rất nóng ruột. Rốt cuộc, ông từ chối sự giúp đỡ của người Anh (rất bất lợi), tự thành lập một lực lượng cứu viện Nguyễn Ánh, gồm 2 tàu chiến với một nhóm chuyên viên dân sự, quân sự và binh sĩ cùng vũ khí, đạn dược, đổ bộ vào Sài Gòn ngày 14 tháng 7 năm 1789. Lực lượng này tuy không hùng hậu nhưng đã gây phấn khởi cho Nguyễn Ánh. Ông lấy lại thế tấn công đánh Tây Sơn (lúc đó, lực lượng chính của Tây Sơn đang bị quân Tàu cầm chân tại Bắc Kỳ), và từ đó đi đến chỗ thống nhất Nam Bắc và lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Gia Long (1802).

Nhưng trước đó Ðức Cha Bá-Ða-Lộc đã mất vì bạo bệnh tại Quy Nhơn ngày 09 tháng 10 năm 1799. Vì đã có thời làm Thủ tướng cho nhà vua nên tang lễ của Ðức Cha đã được vua Gia Long cho cử hành trọng thể theo nghi lễ quốc táng tại Sài Gòn ngày 16 tháng 12 năm 1799. Mộ của ông được gọi là Lăng Cha Cả.

Paris, tháng 9 năm 2000
KQ Vũ Thượng Văn

Cookies user preferences
We use cookies to ensure you to get the best experience on our website. If you decline the use of cookies, this website may not function as expected.
Accept all
Decline all
Analytics
Tools used to analyze the data to measure the effectiveness of a website and to understand how it works.
Google Analytics
Accept
Decline
Advertisement
If you accept, the ads on the page will be adapted to your preferences.
Google Ad
Accept
Decline
Save