“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
Tháng 10/1981 tôi vượt biên. Cuộc vượt biên khó tin vào giữa mùa bão trên chiếc ghe dài 7 mét rưỡi chỉ sau bốn ngày ba đêm đã tới Nam Dương (Indonesia) đã được tôi hồi tưởng một cách chi tiết trong thiên hồi ký “Cải Tạo Nửa Mùa – Vượt Biên Tài Tử” (HQPD, chuyên mục Chuyện tù cải tạo), ở đây chỉ xin rất ngắn gọn.
Nguyên mấy tháng sau khi tôi được thả, ông anh cột chèo, một chuyên viên quang tuyến X ở bệnh viện Nguyễn Văn Học, quyết định tổ chức vượt biên trong phạm vi gia đình, gồm gia đình ông (7 người), gia đinh tôi (4 người), ông anh họ vợ (4 người) và hai gia đình của hai thanh niên có bổn phận lo bãi bến, vận chuyển dầu mỡ..., tổng cộng 26 nhân mạng trong đó gần một nửa là con nít.
Ghe là một chiếc ghe bầu chạy sông đã gần mục nát, được chúng tôi đóng thêm hai công đà và bọc tôn Mỹ dưới lườn. Máy là một động cơ Yanmar F10 (chưa tới một “lốc”) phế thải được tân trang (đóng sơ-mi).
Tài công là một chú em ở vùng biển nhưng chua bao giờ xa khơi, ông anh cột chèo làm tài công phụ, còn tôi – một anh lính không quân văn phòng chưa bao giờ đi biển (trừ chuyến di cư vào Nam năm 1954 trên chiến hạm Mỹ) – bị chỉ định làm... hoa tiêu!
Báo hại, tôi phải kiếm một tay bạn sĩ quan Hải Quân để học một khóa “hải hành căn bản” cấp tốc: xem hải đồ, sử dụng hải bàn, đo tốc độ, tính độ giạt..., và quan trọng hơn cả là xem sao trời để tính phương hướng!
Trong hai ngày bị bão cấp 3, trong khi những chiếc ghe lớn gấp đôi, máy mạnh gấp ba phải tấp vào Côn Sơn để tránh bão (và bị công an trấn lột) thì ghe của chúng tôi cứ thẳng tiến, gặp tàu buôn tàu buôn không vớt, tấp vào giàn khoan thì bị giàn khoan xua đuổi, nhưng nhờ được Ơn Trên đoái thương, ông bà phù hộ nên chỉ sau bốn ngày ba đêm đã đến được một hòn đảo nhỏ của Nam Dương, rồi được đưa tới các đảo Sedanao, Kuku, và sau hơn một tháng rời VN đã đặt chân tới trại tỵ nạn Galang – Cửa ngõ của Tự do và Tình người.

Tới Galang (Galang 1, còn Galang 2 dành cho những người đã được Mỹ nhận học Anh văn chờ ngay đi định cư và người tỵ nạn Căm-bốt), ngay sau khi được Cao Ủy Tỵ Nạn phỏng vấn, tôi đã dò hỏi xem trên trại có tổ chức nào của cựu quân nhân QLVNCH hay không, và được biết chỉ có hai nhóm sinh hoạt sinh hoạt thường xuyên là Chi Hội Hải Quân – Hàng Hải Galang và Chi Hội Không Quân Galang.
Chi Hội Hải Quân – Hàng Hải có nguồn “viện trợ” từ Hoa Kỳ nên mở được một hội quán trên khu sinh hoạt (Hội Quán Trùng Dương, nếu tôi nhớ không lầm), còn Chi Hội Không Quân, mới được thành lập đầu năm 1981, thì mỗi tuần mượn Văn phòng Zone III để họp mặt một lần.
Vào thời gian tôi tới trại, Chi Hội Không Quân Galang có khoảng 15-20 thành viên, do cụu Thiếu tá Trương Như Hoàng (Tent City) làm Chi hội trưởng và cựu Đại úy Dương Ngọc Như (Phi Đoàn 219) làm Chi hội phó.
Về thành phần hội viên, có cấp bậc cao nhất là Đại úy Mai Văn Lê (Phi Đoàn 217), sau khi anh Hoàng đi định cư, anh Như lên làm Chi hội trưởng thì anh Lê giữ chức Chi hội phó.
Còn lại là từ cấp trung úy xuống tới hạ sĩ quan, binh sĩ; trong số đó người duy nhất tôi quen biết từ trước là Vũ Văn Bảo (Trung úy, Phi Đoàn 237) từng ở tù cải tạo chung trại Phú Quốc, Trảng Lớn và Đồng Ban (Tây Ninh).
Khoảng hai tháng sau khi tới trại, tôi trở thành “chủ nhân” của Văn phòng Zone III, hay viết một cách chính xác hơn, làm Zone Trưởng Zone III.
* * *
Nguyên trại Galang 1 được chia ra làm năm zone, từ Zone I tới Zone V. Tôi và mọi người cùng ghe ở Barrack 73 thuộc Zone III.
Như một thông lệ, mỗi khi có một đợt tỵ nạn mới tới trại, các barrack trưởng khi thiết lập danh sách để nộp lên văn phòng zone, thường ghi cả cấp bậc của các cựu quân nhân, cảnh sát quốc gia, chức vụ của các công chức thời VNCH để trong tương lai có thể mời đảm trách các chức vụ tại văn phòng zone hoặc Ban đại diện Trại.
Khi được biết tôi mang cấp bậc trung úy, T, Zone trưởng Zone III, một Thiếu úy Địa phương quân trẻ măng, đã xuống tận Barrack 73 mời tôi giữ chức zone phó khi ấy đang bỏ trống.
Trước đó mấy ngày, Thảo, barrack trưởng Barrack 73, đã nói chuyện với tôi về việc này và đề nghị tôi nhận lời, bởi vì theo lời Thảo, T còn quá trẻ, tính lại hơi ba phải, nể nang người này người khác cho nên không đủ uy tín và khả năng điều hành công việc tại Zone III, vốn được xem là zone quan trọng nhất.

xa xa là chùa Quan Âm, phía bên phải hình là Đồn cảnh sát Nam Dương và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại,
phía bên trái là Zone VI và các cơ quan thiện nguyện, trên sườn đồi là Zone V
Nguyên Zone III nằm ở vị trí trung tâm, “lãnh thổ” bao gồm trung tâm sinh hoạt của trại, gồm Hội trường, Youth Center, thư viện, phòng nghe băng tiếng Anh (Listening Center), các phòng học, tòa soạn bán nguyệt san Tự Do, sân khấu lộ thiên, chỗ đặt TV màu, sân bóng chuyền, sân đá banh..., lại gần Đồn cảnh sát Nam Dương và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại (Camp Commander Office) cho nên dù muốn hay không cũng dễ lọt vào mắt các xếp lớn của cả Cao ủy, Nhà cầm quyền Nam Dương lẫn Ban đại diện Trại!
Thấy Thảo còn trẻ mà biết nghĩ tới việc chung như thế, tôi cho rằng mình cũng phải thể hiện chút thiện chí của một cựu sĩ quan QLVNCH, nên đã nhận lời giữ chức Zone phó Zone III.
Tuy nhiên, lúc ban đầu tất cả những gì tôi muốn đóng góp chỉ là giúp T có thêm chút “uy”, cũng như đóng góp ý kiến trong các buổi họp hàng tuần với các barrack trưởng, đa số là thanh niên trai trẻ.
Nhưng tới đầu tháng 2/1982, khi chàng thiếu úy zone trưởng có tên trong sách vào Galang 2 để chờ đi Mỹ thì cũng là lúc tôi bị phái đoàn Úc tạm gác hồ sơ vì đơn bảo lãnh của đứa cháu vợ bên Úc bị trục trặc phải làm lại từ đầu.
Vì thế trong buổi họp bầu tân zone trưởng, sau khi được toàn thể barrack trưởng tín nhiệm qua cuộc bỏ phiếu kín, tôi đã nhận lời làm zone trưởng.
* * *
Ít lâu sau, một “nhân tài” Không Quân đặt chân tới Galang, một người vốn không xa lạ gì với tôi: cựu Thiếu tá Vũ Ngô Khánh Truật (Khóa 65), bạn từ thời trung học của Trần Như Lâm, tay Trung úy cùng Khóa 3/69, cùng phục vụ tại BCH/KT&TV/KQ với tôi trước năm 1975.
Anh Truật là một người tháo vát, xông xáo, yêu thích thể thao, trước năm 1975 là một cầu thủ trong đội tuyển bóng chuyền của Sư Đoàn 3 Không Quân. Sau khi tới Galang, cứ chiều chiều anh lại rủ một số cao thủ ra sân bóng chuyền trước khu sinh hoạt đấu với nhau; chẳng bao lâu sau đã thu hút được đông đảo thanh niên trong trại, vốn trước kia chỉ thích đá banh.
Mấy tháng sau, nhân sắp tới Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6, tôi bàn với anh Truật đề nghị Ban đại diện Trại nhân dịp này tổ chức một giải thể thao toàn trại, vừa tạo không khí sôi nổi hào hứng vừa nêu cao chính nghĩa tỵ nạn.
Đề nghị của chúng tôi được Ban đại diện chấp thuận ngay, một phần cũng vì ông Trại trưởng (Trưởng ban đại diện Trại) là một cựu Đại úy từng ở tù chung với tôi ở Suối Máu, và khi tình nguyện ra tranh chức Trưởng ban đại diện đã được tôi vận động, ủng hộ hết mình.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi trại tỵ nạn Galang được thành lập (1979) mới có một giải thể thao toàn trại như thế cho nên đã thu hút được cả giới “thể tháo gia” lẫn khán giả; đồng bào trong trại đua nhau đóng góp vào “quỹ giải lao” cho gà nhà...
Kết quả, không chỉ có ông Trưởng ban tổ chức Vũ Ngô Khánh Truật nổi đình đám mà cả tôi cũng được nhiều người... thán phục: Zone III đoạt tới ba trong số bốn giải vô địch: bóng tròn, bóng bàn và chạy 1.500m (về nhất và ba).

KQ Vũ Ngô Khánh Truật đứng mép bên phải, tôi mép bên trái hình

Tháng 8/1982, khi tôi lên đường đi Úc định cư thì anh Truật đã được ông Trại trưởng (cựu Trung tá) Hoàng Công Duyên mời giữ chức Trại phó. Sau đó mấy tháng, khi ông Duyên đi Úc, anh Truật được bầu làm Trại trưởng.
* * *
Tới Úc, gia đình tôi được định cư tại thành phố Melbourne, tiểu bang Victoria, là nơi các cháu vợ tôi cư ngụ. Melbourne là thành phố lớn thứ nhì của Úc, chỉ sau Sydney của tiểu bang New South Wales (NSW). Melbourne cũng là thành phố có người Việt tỵ nạn đông thứ nhì, lúc đó vào khoảng 30 nghìn người.
Năm tôi tới Úc (1982) cũng là thời gian tổ chức đại diện người Việt tỵ nạn tại các tiểu bang trước kia mang những danh xưng khác nhau (Hội Việt Kiều, Hội Người Việt Tự Do...) chính thức đổi tên thành Cộng Đồng Người Việt Tự Do (CĐNVTD).
Các Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH cũng lần lượt được thành lập, trước tiên tại Victoria vào năm 1979. Qua tham dự sinh hoạt của Hội CQN, được biết trong số các quân binh chủng mới chỉ có Hải Quân đã thành lập “Gia Đình Hải Quân - Hàng Hải Victoria”, tôi tìm cách liên lạc với một số anh em KQ đang sống ở thành phố Melbourne, trong đó có bạn tù Vũ Văn Bảo, cựu Chi hội phó Galang Mai Văn Lê, Đặng Văn Đạt (Trung úy, PĐ-231), Lưu Minh Đức (nam ca sĩ số 1 của Youth Center Galang), và một số anh em đã định cư trước đó mấy năm như Nguyễn Thanh Mẫn (Thiếu úy, TTHLKQ Nha Trang), các SVSQ Liên khóa 72-74 La Thanh Bình, Trương Thành Đực, Lương Tùng... với mục đích cùng nhau vận động thành lập một hội Không Quân tại tiểu bang Victoria.
Cùng khoảng thời gian, tôi được anh Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân cho biết có một ông cựu thiếu tá KQ sống ở Melbourne nhưng không tham bất cứ sinh hoạt nào vì lý do riêng tư. Tôi liền xin số điện thoại và khi liên lạc được mới biết đàn anh không phải ai xa lạ mà chính là anh Võ Văn Thi, nguyên Trưởng Khối CTCT Căn Cứ 20 Chiến Thuật (Phan Rang) mà tôi đã gặp lại ở Thành Ông Năm.
Anh Thi rất mừng, nói tôi tới nhà chơi. Sau khi tôi trình bày công việc vận động thành lập hội Không Quân, anh hứa sẽ yểm trợ hết mình nhưng sẽ không giữ một chức vụ nào.
Đầu tháng 9 năm 1983, tôi mời tất cả anh em KQ đã liên lạc được tới họp mặt tại “căn nhà ngoại ô” của KQ Nguyễn Thanh Mẫn (người đầu tiên mua nhà). Có 13 anh em (tính cả tôi) tham dự và tất cả đồng ý thành lập Ban vận động do tôi làm Trưởng ban, Nguyễn Thanh Mẫn làm phó.
Tiếp theo, tôi bắt đầu phổ biến lời kêu gọi trong các buổi sinh hoạt của Cộng Đồng, của Hội CQN và trên các phương tiện truyền thông.
* * *
Vào khoảng thời gian này, đầu mùa tỵ nạn, khí thế đấu tranh còn mạnh mẽ, nhiều phong trào, mặt trận, liên minh, tổ chức phục quốc, kháng chiến... lần lượt ra đời, với thành phần nòng cốt là giới cựu quân nhân, kế tới là giới trẻ, sinh viên học sinh.
Việc này trong khi nêu cao được chính nghĩa quốc gia của người Việt tỵ nạn thì lại (đôi khi) tạo ra sự phân hóa trong tập thể cựu quân nhân, trong giới trẻ.
Điều này cũng dễ hiểu bởi những người từng cầm súng, những người trẻ còn đầy bầu nhiệt huyết thường ít nhiều cực đoan cho nên ai cũng hết lòng phò “lãnh tụ” của mình, đề cao tổ chức của mình.
Thấy được tình trạng phân hóa đó, tôi đề nghị với anh em trong Ban vận động lấy danh xưng của hội KQ sắp được thành lập là “Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH tiểu bang Victoria” để làm nổi bật mục tiêu chính là ái hữu, tương thân tương trợ giữa những người cùng màu cờ sắc áo năm xưa.
Đề nghị của tôi được anh em KQ tán thành, nhưng tới khi phổ biến Thông Báo thì bị không ít người “lên gân lập trường”, “chống cộng bằng khẩu hiệu” chê bai, đả kích...
Điển hình là trong một buổi sinh hoạt của Hội CQN, sau khi tôi lên đọc Thông Báo của Ban vận động, một cựu quân nhân có vai vế trong một tổ chức kháng chiến nọ đã đứng lên chất vấn:
- Như vậy Không Quân các anh lập hội chỉ để ái hữu chứ không chống cộng?
Trước cung cách trịch thượng của người này tôi cũng hơi nóng mặt nhưng đã cố dằn để ôn tồn trả lời, đại ý như sau:
Với mấy chữ “QLVNCH” trong danh xưng của Hội, chúng tôi đã xác định lập trường quốc gia của mình, tuy nhiên chúng tôi cũng khẳng định hội được thành lập với mục đích chính là ái hữu, còn muốn tham gia các hoạt động đấu tranh, chống cộng, các hội viên có thể sát cánh với Hội CQN, với Cộng Đồng Người Việt Tự Do, hay tham gia bất cứ tổ chức, hội đoàn quốc gia nào khác.
Không chấp nhận cách trả lời của tôi, vị cựu quân nhân nói trên đã cho tôi và cử tọa một bài mo-ran về trách nhiệm của cá nhân và hội đoàn đoàn thể trong công cuộc phục quốc, kháng chiến, v.v...
Nhưng mặc cho ông nói gì thì nói, trong những năm sau đó rất nhiều hội đoàn, trong đó có cả hội đoàn CQN đã sử dụng hai chữ “ái hữu” trong danh xưng. Riêng Hội Không Quân Victoria, chính nhờ hai chữ “ái hữu” ấy mà chúng tôi đã ngăn chặn được việc “chính trị hóa” sinh hoạt của Hội của một vài cá nhân; chấp nhận làm mất lòng một thiểu số để duy trì sự đoàn kết, tình thân trong Hội.
Riêng bản thân tôi, mặc dù được mời (và nhận lời) làm MC trong nhiều buổi sinh hoạt đấu tranh cho tự do dân chủ trong cộng đồng tỵ nạn, trong đó có buổi ra mắt Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến (Mặt Trận Hoàng Cơ Minh) tại Úc Châu, nhưng dứt khoát không gia nhập bất cứ một tổ chức, hội đoàn nào ngoài Hội CQN.
* * *
Cuối tháng 1 năm 1984, tại Văn phòng Cộng Đồng Người Việt Tự Do (CĐNVTD) tiểu bang Victoria, một buổi họp mở rộng đã được tổ chức với sự tham dự của hơn 30 anh em cựu quân nhân KQ trong tiểu bang, đi tới quyết định chính thức thành lập Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Victoria, và bầu ra một Ban chấp hành lâm thời nhiệm kỳ 6 tháng.
Ngày 1/7/1984, trong buổi kỷ niệm Ngày Không Lực 1 tháng 7 tại nhà hàng Hòa Bình ở vùng Footscray (chủ nhân là một cựu Đại úy KQ), Ban chấp hành chính thức đầu tiên đã được bầu, do KQ Khưu Văn Nghĩa (Trung úy, PĐ-217) làm Hội trưởng.
Mặc dù không có một sự “kiểm chứng” nhưng cứ theo lời xác nhận của các vị niên trưởng ở Pháp và anh em KQ ở Canada, thì Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Victoria, Úc Châu, là Hội Không Quân đầu tiên trên thế giới (ngoài Hoa Kỳ) được chính thức thành lập!
Tiếng lành đồn xa, qua năm 1985, anh em KQ ở tiểu bang Queensland (QLD) tận miền bắc nước Úc đã liên lạc thăm hỏi, tìm hiểu đưa tới việc thành lập Hội Ái Hữu Không Quân tiểu bang QLD, do KQ Huỳnh Hạnh Kim Hồng (Đại úy, PĐ-245?) làm Hội trưởng.
Tiếp theo là Hội Ái Hữu Không Quân NSW do KQ Nguyễn Hứa Chữ (Đại úy, hoa tiêu C-7 Caribou) làm Hội trưởng.
* * *
Ngày 2 tháng 10 năm 1992, nhân dịp về thủ đô Canberra tham dự cuộc diễn hành “Welcome Home” của cựu chiến binh tham chiến tại Việt Nam, anh em Không Quân về từ các tiểu bang Victoria, NSW và QLD đã họp mặt tại nhà hàng “Canberra” của KQ Nguyễn Bá Khuê (Thiếu tá CTCT, từng phục vụ tại Pleiku với tôi năm 1970-1971) đi tới quyết định thành lập Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Úc Châu.
Ngày này (2 tháng 10 năm 1992) được xem là Đại Hội Liên Bang lần thứ nhất và sau đó cứ mỗi 2 năm, Đại Hội sẽ do các Hội KQ tiểu bang luôn phiên tổ chức.
Năm 1994, Đại Hội kỳ 2 được tổ chức tại Sydney (NSW). Trong dịp này, tôi đã được gặp gỡ cựu Trung tá Nguyễn Quang Toại, Khóa 3 Quan sát viên TTHLKQ Nha Trang, được ghi nhận là vị niên trưởng KQ thâm niên nhất định cư ở Úc.
Khi Đại Hội kỳ 3 được tổ chức tại Melbourne (Victoria) vào năm 1996, đã có thêm Hội Ái Hữu Không Quân Nam Úc (South Australia) được thành lập, và sau đó là Hội Ái Hữu Không Quân Tây Úc (Western Australia) ở tận bờ biển phía tây (Ấn-độ dương).
Năm 1998, Đại Hội kỳ 4 được tổ chức tại thành phố Brisbane, thủ tiểu bang Queensland (QLD) ở miền bắc hòn đảo Úc-đại-lợi, nơi có khí hậu nhiệt đới giống như ở Việt Nam.
Hai hội viên cao tuổi nhất của Hội QLD là cựu Thiếu tá Nguyễn Bửu Lộc, nguyên Chỉ huy trưởng Đài Kiểm Báo 11 (Cần Thơ), và cựu Đại úy Phạm Khôn Rư (Khóa 8 Rochefort), nguyên Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Tân Trang Quân Xa & Cơ Giới, thuộc BCH/KT&TV/KQ, tức là cùng đơn vị với tôi.

Trung úy Huỳnh, và Đại úy Phạm Khôn Rư
Tới đây xin có đôi dòng về đặc san LÝ TƯỞNG của Liên Hội Không Quân Úc Châu.
Ngược dòng thời gian, sau mấy năm “hốt bạc” với gian hàng quay số (phi cơ đáp 1 trong 16 phi trường) tại Hội chợ tết của Cộng Đồng, tới năm 1989 anh em KQ Victoria quyết định xuất quỹ thực hiện giai phẩm LÝ TƯỞNG xuân (lấy tên đặc san LÝ TƯỞNG của BTL/KQ trước 1975). KQ Vũ Văn Bảo nhờ quen biết và học nghề từ một vị thân hữu làm trong nhà in của Đại Học RMIT nên được trao trách nhiệm tổng quát, tôi phụ trách phần bài vở.
Tưởng chỉ “chơi bạo lấy tiếng” một lần rồi thôi không ngờ cuốn giai phẩm LÝ TƯỞNG ấy lại gây tiếng vang, được anh em KQ Úc Châu và thân hữu đón nhận nhiệt tình, độc giả ngoài Không Quân (và mạnh thường quân) ủng hộ hết mình, cho nên qua năm sau tiếp tục ra mắt, để rồi từ giữa thập niên 1990 cho tới khi xảy ra đại dịch Covid-19, phát hành đều đặn mỗi năm hai số - giai phẩm xuân và số kỷ niệm Ngày Không Lực 1 tháng 7.
Vào thời “vàng son”, số lượng độc giả ở Bắc Mỹ (Hoa Kỳ và Canada) lên tới gần 100, nhờ có KQ Bùi Tá Khánh (PĐ-219) tình nguyện làm đại diện ở Bắc Mỹ phân phối. Ngoài ra LÝ TƯỞNG Úc Châu còn có khoảng một chục độc giả KQ ở Âu Châu và một vị niên trưởng ở tận Xứ hoa anh đào.
Sau khi Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu được thành lập vào năm 1992, LÝ TƯỞNG Úc Châu chính thức trở thành tiếng nói của Liên Hội.
* * *
Cho tới giữa thập niên 1990, Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Úc Châu chưa có một quan hệ chính thức nào với Tổng Hội Không Lực cũng như các Hội Không Quân ở Hoa Kỳ, chỉ có những liên lạc, trao đổi mang tính cách cá nhân giữa anh em LÝ TƯỞNG Úc Châu với LÝ TƯỞNG của Tổng Hội (thời gian anh Đào Vũ Anh Hùng phụ trách), hoặc giữa một số cá nhân KQ ở Úc với cấp chỉ huy cũ, với bạn bè KQ trước năm 1975 hiện định cư tại Hoa Kỳ.
Riêng tôi chỉ liên lạc được với hai vị đàn anh trước năm 1975 là cựu Thiếu tá Nhữ Văn Phúc, ngày ấy có thời gian giữ chức Quyền Trưởng Khối CTCT BCH/KT&TV/KQ, và cựu Trung tá Võ Ý, nguyên Phi đoàn trưởng PĐ-118 Bắc Đẩu ở Pleiku ngày trước; cả hai đi HO sang Hoa Kỳ.
Nguyên sau khi đi tù cải tạo về, ông Phúc nghe tin đồn tôi đã chết trong lúc hỗn loạn tại phi trường Biên Hòa trong cuộc di tản tối 28/4/1975. Gần 20 năm sau, sau khi được đọc bài “Nghe tiếng hát Phùng Văn Chiêu nhớ những ngày cuối cùng của Biên Hòa” của tôi đăng trên LÝ TƯỞNG Úc Châu và được một đặc san KQ ở Hoa Kỳ đăng lại, ông Phúc mới biết tôi vẫn còn sống nhăn răng nhưng vì không có địa chỉ của LÝ TƯỞNG Úc Châu, ông đã gửi một mẩu nhắn tin “Tìm trẻ lạc” đăng cầu may trên một tờ báo nọ ở Sydney, một người bạn KQ ở trên đó đọc được mới cắt mẩu nhắn tin gửi cho tôi.
Anh em liên lạc với nhau, câu đầu tiên của ông Phúc là “Cám ơn bạn đã nhắc tới tên tôi trong bài viết”. Đó là đoạn sau đây:
...Khoảng 7 giờ tối, căn cứ Biên Hòa hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh KQ, phi trường bị chìm trong bóng tối vì nhà máy điện đã bị đốt. Phía SĐ3KQ, Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, vị sĩ quan cao cấp nhất còn lại đã quyết định dẫn lính về Sài Gòn bằng đường bộ; phía BCH/KT&TV/KQ, sĩ quan cao cấp nhất là Thiếu tá Nhữ Văn Phúc, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quy Chuẩn KQ (PMEL), có thời gian giữ chức Quyền Trưởng Khối CTCT. Ông nói với tôi:
- Vợ con moa còn kẹt bên Cù Lao, không biết giờ này ra sao. Moa phải về. Thôi, toa ở lại nhé! (ngưng trích)
Câu nói chẳng có gì đáng nhớ ấy ra hải ngoại được tôi nhắc lại đã khiến ông Phúc “có điểm” với hiền nội còn hơn cả mua nhẫn hột xoàn tặng!
* * *
Anh Võ Ý thì biết tôi ở Úc nhờ liên lạc với một người đàn em ở thành phố Melbourne, cũng trong Hội Không Quân Victoria.
Tôi với ông nhà thơ KQ này có khá nhiều kỷ niệm ở Pleiku. Ngày ấy (1969-1972), ông cậu lớn của tôi (Khóa 13 VBQG) đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 20 CTCT đóng gần cổng sau Quân Đoàn II, cách phi trường Cù Hanh chỉ vào khoảng 1 km.
Cậu tôi thân với ông Lê Bá Định từ lúc ông Định còn làm Trưởng Phòng CTCT Căn Cứ 92 KQ với ba tay sĩ quan và dăm mạng lính văn phòng. Sau khi Không Đoàn 72 Chiến Thuật được thành lập, anh Võ Ý lên Pleiku làm Phi đoàn trưởng PĐ-118 thay ông Võ Công Minh thì cậu tôi mới quen biết người đàn em Khóa 17 VBQG này, mời cộng tác với đặc san Đại Nghĩa của Tiểu Đoàn 20 CTCT.
Lúc đó ở Pleiku có hai người cầm bút tên tuổi cũng cộng tác với tờ Đại Nghĩa là nhà thơ Kim Tuấn và nhà văn / nhà thơ Hoàng Khởi Phong (Đại úy Quân Cảnh Nguyễn Vinh Hiển), cho nên tôi cũng thường được theo ông Lê Bá Định và anh Võ Ý ra phố Pleiku tham dự những buổi họp mặt văn nghệ (viết là “chầu rìa” có lẽ chính xác hơn).
Ra hải ngoại, anh Võ Ý viết văn nhiều hơn là làm thơ. Những bài viết của anh đa số viết về “người và việc” trong Không Quân trước năm 1975 cũng như sau khi ra hải ngoại, cùng với một số bài về “trường mẹ” Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
Anh cũng cộng tác với LÝ TƯỞNG của Tổng Hội, LÝ TƯỞNG Úc Châu, các đặc san KQ ở Hoa Kỳ và Đa Hiệu của Võ Bị Quốc Gia.
Tới năm 2001, khi Liên Hội Không Quân Úc Châu bắt tay vào việc thực hiện quyển Quân Sử Không Quân VNCH, anh Võ Ý không chỉ góp sức với bài “Ngành Quan Sát trong KLVNCH” mà còn giới thiệu chúng tôi với nhiều vị niên trưởng trong quân chủng để nhờ giúp đỡ trong việc biên soạn.
Tuy nhiên, đó là chuyện sau này còn vào năm 1998, vị niên trưởng Không Quân đầu tiên từ Hoa Kỳ chúng tôi được hân hạnh đón tiếp lại là một vị khách bất ngờ: Giáo sư Tiến sĩ (cựu Đại tá) Nguyễn Xuân Vinh, vị Tư lệnh đời thứ hai của Không Quân VNCH.
(Còn tiếp)
(Fotumpost: BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)