BUỒN VUI ĐỜI LÍNH..... VĂN PHÒNG (phần 3)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện
“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
Sau ngày 30/4/1975, khi Ủy ban Quân quản thành Hồ ra lệnh cho quân nhân QLVNCH các cấp phải “trình diện đăng ký” tại địa phương, tôi tới trình diện tại một địa điểm ở đường Huỳnh Quang Tiên, Phú Nhuận.
Hơn một tuần sau, một người em trai của tôi ở Biên Hòa lên báo tin “khẩn cấp”: chớ trở về đơn vị cũ trình diện vì tôi có tên trong danh sách đốt phi trường đang bị CSVN truy nã!
Như nhiều người ở lại, hoặc bị kẹt lại còn nhớ, sau khi chiếm miền Nam, cộng sản đã kêu gọi các quân nhân QLVNCH ở một số đơn vị chuyên môn, nhất là Không Quân, Hải Quân, trở lại đơn vị cũ để “hợp tác” với chế độ mới, và không ít người đã nghe theo.
Có thể những người này hy vọng sẽ được chế độ mới lưu dụng, hoặc ít ra cũng được yên thân với đám cán bộ cộng sản nằm vùng và bọn “30 tháng tư” tại địa phương. Bên cạnh đó cũng có một số người bất đắc dĩ phải hợp tác, thường là những sĩ quan giữ chức vụ quan trọng, bị cộng sản tới tận nhà “mời”!
Chỉ tính trong quân chủng Không Quân, đã có hàng chục cựu phi công hợp tác bằng cách huấn luyện phi công CSBV lái những loại phi cơ mà KQVN bỏ lại.
Riêng tại Biên Hòa còn một số chuyên viên kỹ thuật, từ sĩ quan xuống hạ sĩ quan, của Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân (BCH/KT&TV/KQ) tình nguyện hợp tác. Nhưng tới khi những người này trở lại phi trường thì tất cả chỉ được giao một công việc duy nhất: dọn dẹp những gì đã bị đốt phá vào chiều tối 28/4/1975.
Sau này tôi được nghe kể lại như sau:
Trong số những quân nhân của BCH/KT&TV/KQ trở lại phi trường để “hợp tác” với cách mạng, có Trung tá Nguyễn Mạnh Thuần, Không đoàn phó Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo, và ông đã được viên chính ủy của đơn vị Không Quân CSBV có nhiệm vụ tiếp thu CCKQ Biên Hòa kêu lên mắng vốn:
- Chúng tôi cũng đoán biết trước khi rút lui các anh sẽ được lệnh phá hủy các cơ sở nhưng tôi không thể tưởng tượng các anh lại thi hành triệt để, đốt phá tận tình tới mức ấy. Anh thử nhìn xem, cái căn cứ không quân lớn nhất, các cơ xưởng hiện đại nhất Đông Nam Á giờ đây còn lại được những gì?!
Thế rồi, cũng theo những gì tôi được nghe kể lại, tay chính ủy đã dò hòi hỏi đám Việt Cộng nằm vùng và lấy lời khai của một số quân nhân KQ có mặt tại phi trường Biên Hòa chiều Thứ Hai 28/4/1975 để thiết lập danh sách những “thủ phạm” chính trong vụ phá hủy CCKQ Biên Hòa, nghe đâu khoảng 12, 13 người, trong đó có Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu (nơi có Phòng Điện Toán), mấy ông Thiếu tá Liên đoàn trường (“chủ nhân” của các hangar, cơ xưởng...), Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ SĐ3KQ, vị sĩ quan trách nhiệm toán EOD phá hủy khu nhà kho của Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận..., và dĩ nhiên không thể thiếu tên tôi, kẻ đã châm ngọn lửa đầu tiên tại BCH/KT&TV/KQ.
Nghe được tin này, một quân nhân phục vụ tại Khối CTCT đã tìm tới nhà mẹ tôi báo động, nhờ nhắn với tôi phải trốn cho kỹ vì trong đám nội tuyến Việt Cộng có một sĩ quan phòng thủ biết tôi khá rõ.
Thực ra cho dù không có lời nhắn của nhân viên nói trên, tôi cũng đủ khôn ngoan để không bao giờ mò về Biên Hòa để “nộp xác” cho kẻ thù. Hơn nữa, cho dù không có tên trong danh sách bị truy nã, tôi cũng không bao giờ muốn trở lại thành phố thân yêu nay đã rợp bóng cờ đỏ, bắt buộc phải đi ngang qua cổng 1 hoặc cổng 2 của phi trường nay đã đổi chủ!
* * *
Trong hơn ba năm đầu của gần sáu năm ở tù cộng sản – dưới mỹ từ “học tâp cải tạo” – tôi không có nhiều cơ hội nhắc nhớ, hồi tướng những năm tháng phục vụ trong quân chủng Không Quân vì qua bao lần chuyển trại, tôi chỉ gặp vài sĩ quan KQ khác đơn vị trước năm 1975, lại không ở cùng đội cho nên rất khó “liên hệ” với nhau.
Viết một cách chính xác thì lúc ban đầu, trong mấy tháng ngắn ngủi ở Thành Ông Năm (Hốc Môn) tôi cũng được ở chung tổ với một tay bạn thân và gặp lại một vài sĩ quan KQ quen biết.
Tay bạn thân không ai khác hơn “Đại úy chưa kịp gắn lon” Trần Ngọc Tự, vốn là bạn nối khố từ thời trung học.
Cùng đi Khóa 3/69, khi từ TTHL Quang Trung lên Trường Bộ Binh Thủ Đức, hai thằng cứ “nắm áo” nhau nên được ở cùng Trung Đội, giường nằm thì thằng tầng trên thằng tầng dưới.
Cùng được về ngành Chiến Tranh Chính Trị của Không Quân, tới khi đi học Căn Bản Sĩ Quan CTCT tại Đà Lạt hai thằng cũng cùng khóa (có thêm ông bạn Phan Lạc Giang Đông).
Chức vụ Trần Ngọc Tự nắm giữ khá dài dòng và rổn rảng: Phụ tá Trưởng Đoàn Công Tác Chính Huấn kiêm Trưởng Ban Biên Soạn Tài Liệu & Sĩ Quan Thuyết Trình, VP/TMP/CTCT, BTL/KQ; và tới năm 1974 kiêm Thư ký tòa soạn đặc san Lý Tưởng của BTL/KQ.
Sau 30/4/1975, khi có lệnh trình diện “học tập 10 ngày”, tôi và Tự cùng nhau tới Đại học Văn Khoa trình diện để rồi bị đưa lên Thành Ông Năm (Hốc Môn). Cũng nhờ “nắm áo” nhau, chúng tôi luôn luôn ở cùng tổ cho tới khi bị đưa ra Phú Quốc vào đầu năm 1976, trước tết ta mấy ngày, và chia tay nhau từ đó.
Tới khi Khmer Đỏ đánh đảo Thổ Châu, tù cải tạo ở Phú Quốc được đưa về đất liền thì Tự bị đưa lên Long Giao rồi ra Bắc, tôi may mắn được đưa về Trảng Lớn (Tây Ninh) rồi lần lượt nhiều trại khác trong Nam.
Một trong những sĩ quan KQ quen biết tôi được gặp lại trong Thành Ông Năm là Thiếu tá Võ Văn Thi, Trưởng Khối CTCT Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân (Phan Rang).
Tôi (và Tự) quen anh Thi ngày anh còn phụ trách hướng đạo sinh quân đội tại BTL/KQ.
Vào thời gian hai tháng đầu ở Thành Ông Năm, khi CSBV chưa có đù người để kiểm soát chặt chẽ, tôi và Tự thường leo rào sang khu thiếu tá, đại úy và được gặp anh Thi vài lần. Tội nghiệp đàn anh, khi nghe phong phanh cấp thiếu tá sắp bị đưa đi nơi khác, anh Thi đã tới hàng rào nhờ người nhắn tôi và Tự ra để anh trao hai gói thuốc Bastos De Luxe mà anh mới nhận được trong lần gửi quà đầu tiên của gia đình.
* * *
Rời Thành Ông Năm ra Phú Quốc rồi về Trảng Lớn, tôi không quen thân một bạn tù Không Quân nào, cho tới khi bị đưa lên Đồng Ban (cũng ở tỉnh Tây Ninh) mới được ở chung đội với Trung úy Đỗ Văn Cường, trên tôi mấy khóa, hoa tiêu quan sát phục vụ tại Phi Đoàn 110 Thiên Phong ngoài Đà Nẵng (hiện nay anh đang định cư ở Hoa Kỳ).
Sau hơn một năm ở chung hai trại Đồng Ban, Phước Long với anh Cường, khoảng tháng 8 hay tháng 9/1980, tôi bị đưa về trại Suối Máu ở Biên Hòa. Chính tại đây, tôi đã tìm lại được chút không khí “gia đình Không Quân” khi ở tù chung với mấy đàn anh cấp tá quen biết trước năm 1975, gồm mấy vị thiếu tá Liên đoàn trưởng, Trưởng Phòng ở BCH/KT&TV/KQ và Thiếu tá Lê Thanh Hồng Vân, Phi đoàn phó Phi Đoàn 530 ở Pleiku năm xưa.
Nguyên trại tù Suối Máu được chia ra năm khu, gọi là K, từ K1 tới K5. Thời gian đầu, Suối Máu chỉ dành cho cấp tá, sau khi hầu hết các vị này đã bị đưa ra Bắc hoặc các trại khác ở trong Nam, tù cải tạo cấp úy từ các nơi như Trảng Lớn, Thành Ông Năm, Kà Tum, Phước Long... mới được đưa về để điền vào chỗ trống.
Đám chúng tôi từ Phước Long về là đợt sau cùng cho nên bị chia năm xẻ bảy, tôi lọt vào K2 là K duy nhất còn sót lại một số trung tá, thiếu tá.
Trước khi đưa tù từ các nơi về, cấp tá ở K2 đã bị dồn vào những dãy nhà gần hội trường và cổng ra vào, những dãy còn lại dành cho cấp úy mới được đưa về.
Theo nội quy, tù khu cấp tá và khu cấp úy ở K2 không được “quan hệ” với nhau dưới mọi hình thức, tức là không được vào nhà đã đành mà còn không được gặp gỡ, trò chuyện ở bất cứ nơi nào. Tuy nhiên trên thực tế, nếu không sợ bị ăng-ten báo cáo, người ta có thể quan hệ với nhau khi xem đấu bóng chuyền ngoài sân hay ngồi hóng mát (hoặc phơi nắng để giết con ghẻ) trên thềm hội trường.
Tôi cũng thường ra thềm hội trường ngồi nhưng không phải để hóng mát hoặc phơi nắng mà để thả hồn về với dĩ vãng... Không Quân.
Nguyên trại tù Suối Máu nằm phía bên mặt Quốc lộ 1 (hướng đi Hà Nội), cách phi trưởng Biên Hòa khoảng 3 km. Ngay từ khi mới tới Suối Máu, tôi đã thấy những chiếc MiG-21 của cộng sản Bắc Việt cất cánh từ phi trường và nghe tiếng động cơ phản lực thỉnh thoảng gầm rú, mà qua kinh nghiệm trong mấy năm phục vụ tại CCKQ Biên Hòa tôi biết đó là tiếng động cơ từ giàn thử động cơ phản lực (Test Cell) ở khu Đông, mà chúng tôi không kịp phá hủy trong cuộc di tản chiều 28/4/1975.
Trại tù Suối Máu nằm trên một vùng đất khá cao cho nên ngồi trên thềm hội trường nhìn về hướng Bắc, phía bên kia Quốc lộ 1, tôi có thể thấy nhà thờ giáo xứ Phúc Hải và các giáo xứ kế tiếp của vùng Hố Nai, nơi trước đó hơn 10 năm, Trung úy hoa tiêu F-5 Nguyễn Trí Kiên đã chấp nhận hy sinh để hàng trăm người dân được sống. (Chú thích 1)
Một ngày nọ, đang ngồi trên thềm hội trường thả hồn về chốn xưa, tôi gặp Thiếu tá Lê Hiền Đức, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Chế Tạo & Sửa Chữa Phụ Tùng, thuộc Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo.
Thiếu tá Đức (về sau đi HO và đã qua đời tại Hoa Kỳ) là vị sĩ quan lớn tuổi nhất trong số những cấp chỉ huy trung gian mà tôi quen thân, chỉ đứng sau Đại úy Nguyễn Văn Ban, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị.
Lớn tuổi nhất nhưng lại mang cấp bậc thấp hơn một số đàn em trong nghề (đã mang lon trung tá) chỉ vì ông Đức không “có điểm” với ông Từ Văn Bê.
Cũng giống trường hợp Đại úy Nguyễn Văn Ban, tôi thân ông Đức một phần vì biết và thích uống rượu. Mỗi cuối tuần, sau giờ làm việc ông và mấy sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan thân tín dưới quyền thường gầy độ ngay tại xướng. Xưởng của Liên Đoàn nằm ở khu Tây, gần Phòng Xã Hội nên tôi thường được tay bạn cùng khóa rủ rê. Từ đó tôi và Thiếu tá Đức thân nhau.
Việc này tới tai ông Từ Văn Bê – một người suốt đời không một giọt rượu. Một hôm, không biết có điều gì bực bội trong lòng, ông bất ngờ hỏi tôi một cách khá gay gắt:
- Nghe nói hồi này anh nhậu với Thiếu tá Đức dữ lắm phải không?!
Tôi hơi khựng rồi lấy lại bình tĩnh, trả lời:
- Thưa Đại tá (lúc đó ông Bê chưa lên tướng), chúng tôi chỉ uống mấy ly bia cho vui thôi chứ đâu có hết xị này tới xị khác mà nói là nhậu dữ. Hơn nữa, Thiếu tá Đức và chúng tôi chỉ uống sau giờ làm việc mà thôi!
Khi trả lời như thế tôi cũng có cương ẩu: tôi và ông Đức thường uống rượu thuốc chứ đâu uống bia!
Khi được tôi kể lại chuyện này, ông Đức biết ngay ai là kẻ đâm thọc: một ông trung úy già trưởng xưởng có tiếng là gương mẫu, thường hay lên mặt dạy đời, hù dọa người khác. Nhưng tôi dư biết tay trung úy già này - và những tay chuyên tâu trình khác - chẳng có chút ảnh hưởng nào đối với ông Từ Văn Bê, một cấp chỉ huy đầy bản lĩnh.
* * *
Ông Đức cho tôi biết hiện có 4, 5 vị cựu thiếu tá khác của BCH/KT&TV/KQ cũng đang ở K2 Suối Máu.
Nguyên BCH/KT&TV/KQ của chúng tôi là một đơn vị kỹ thuật & tiếp vận, tuy cấp số tương đương với một sư đoàn không quân nhưng không có phi cơ. Thành thử trừ ông Chỉ huy trưởng Từ Văn Bê được ngồi chung trực thăng với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, Tư lệnh SĐ3KQ, rời CCKQ Biên Hòa vào tối 28/4/1975 sau khi đốt phi trường, tất cả đã phải tự mình tìm đường thoát thân hoặc chấp nhận ở lại.
Trong số những người bị kẹt lại, hoặc chấp nhận ở lại có hai ông trung tá và hầu hết thiếu tá.
Cũng theo lời kể của ông Đức, vào thời gian đầu ở Suối Máu còn có một số trung tá, đại tá Không Quân ở các đơn vị khác, trong đó có sếp cũ của tôi ở Pleiku ngày trước là Trung tá Lê Bá Định, cựu Trưởng Khối CTCT Pleiku, sau làm Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, nhưng ít lâu sau, tất cả đã bị đưa ra Bắc.
* * *
Ngoài các đàn anh nói trên, tôi được biết ở K2 Suối Máu lúc đó còn có Thiếu tá Lê Thanh Hồng Vân (LTHV), một hoa tiêu khu trục nổi tiếng, xuất thân Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng, về sau có thời gian giữ chức Phi đoàn phó Phi Đoàn 530 Thái Dương ở Pleiku.

Trong suốt mấy tháng trước khi anh LTHV bị đưa về nhà giam Chí Hòa, tôi chỉ gặp anh vài lần, chào hỏi nho nhỏ chứ không dám gặp gỡ trò truyện vì nhà của anh nằm ngay “ngã tư quốc tế” đông người qua lại, nên tôi không muốn anh hay tôi, hoặc cả hai, bị một người bạn tù quý hóa nào đó báo cáo vi phạm nội quy.
Nhưng dù không được trò truyện với nhau, tôi cũng biết ở Suối Máu, LTHV vừa là một anh hùng, vừa là một huyền thoại. “Anh hùng” là việc làm Trưởng Ban Hành Động của K2 trong cuộc nổi loạn đêm Giáng sinh 1978, còn “huyền thoại” là việc anh có đào là một đảng viên cộng sản!
Anh LTHV đã qua đời cách đây mấy năm tại Hoa Kỳ, tôi xin hương linh anh cho phép kể lại những gì ngày đó anh em tù cải tạo ở Suối Máu thường kể cho nhau nghe một cách thích thú và quả quyết đó là... chuyện thật!
Huyền thoại ấy - hoặc “giai thoại” nếu là chuyện thật - như sau: trước năm 1975, cộng sản cho một nữ cán bộ xinh đẹp giả dạng “em gái hậu phương” quyến rũ anh LTHV để khai thác bí mật quốc phòng.
Không biết cô cán bộ có khai thác được bí mật nào không, chỉ biết thay vì quyến rũ anh, cô đã bị anh quyến rũ. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tức là nhiệm vụ được đảng trao phó đã hoàn tất, cô cán bộ cộng sản vẫn không bỏ tay “giặc lái”. Sau khi LTHV bị đi học tập cải tạo, cô lên thăm nuôi thường xuyên, muốn thăm lúc nào thì thăm chứ không phải chờ đợi tới kỳ thăm nuôi như những tù cải tạo khác, bởi vì cô là một... đảng viên Cộng Sản!
Nhờ đó, hay ít ra cũng là theo suy luận của anh em bạn tù, LTHV không bị đưa ra Bắc, và ở Suối Máu anh không ngán một tay cán bộ nào cả. Đặc biệt, anh nhất quyết không chịu cạo bộ râu mép dù đã được viên thiếu tá thủ trưởng K2 khuyến cáo nhiều lần.
* * *
Sau mấy tháng ở Suối Máu, qua tin tức trao đổi giữa các K, tôi được biết Phan Lạc Giang Đông (PLGĐ) đang ở bên K1.
Như đã viết ở phần đầu, PLGĐ là một người bạn khá thân của tôi và Trần Ngọc Tự, cùng học Khóa 8 Căn Bản Sĩ Quan CTCT ở Đà Lạt năm 1970; sau đó PLGĐ cùng phục vụ tại Đoàn Công Tác Chính Huấn BTL/KQ với Tự.

Sau 30/4/1975, tuy cùng ở Phú Nhuận nhưng PLGĐ không trình diện “học tập 10 ngày” ở Đại Học Văn Khoa với tôi và Tự, cho nên không ở chung trại với nhau.
Trại cuối cùng của PLGĐ trước khi bị đưa về Suối Máu là Thành Ông Năm (trại đầu tiên của tôi và Tự). Về Suối Máu, PLGĐ ở K1 sát K2 của tôi.
Suối Máu trước kia là tại tù phiến cộng, sau 1975 biến thành trại tù sĩ quan ”ngụy” do Quân Đội Nhân Dân trông coi. Các K được phân cách nhau bằng mấy lớp hàng rào kẽm gai khá kiên cố, tuy nhiên sau khi kẽm gai và cọc sắt được bộ đội gỡ bớt đem đi bán thì tù “cải tạo” có thể lén chui từ K này qua K khác.
Nhưng hàng rào giữa K2 và K1 thì gần như còn nguyên. Theo suy đoán của tôi có lẽ vì ở hàng rào ngoài trại, khoảng giữa K1 và K2 có một vọng gác 24/24, lính canh từ trên đó nhìn xuống thấy rõ mồn một, các “đồng chí” không dám chơi bạo cho nên hàng rào giữa hai K mới còn nguyên!
Vì thế tù ở K1 và K2 muốn nói chuyện với nhau phải nói thật lớn tiếng mới nghe được, cho nên việc trao đổi tin tức thường được thực hiện bằng cách viết ra giấy rồi cột vào một hòn đá ném qua hàng rào.
Qua một lần trao đổi bằng miệng với anh em bên K1, tôi được biết PLGĐ ở bên đó. Nhưng chưa kịp liên lạc thì xảy ra cuộc nổi loạn đêm Giáng Sinh 1978.
Thời gian này, tù cải tạo đã được bộ đội bàn giao công an của Cục Trại Giam, những cai tù thứ thiệt, cho nên việc truy tìm những anh em có tên trong các Ban hành động và Ban đại diện quân binh chủng ở các K không phải là một việc khó khăn.
Thiếu tá KQ Lê Thanh Hồng Vân, Trưởng ban Hành động K2, bị đưa về Chí Hòa ngay trong đợt thanh trừng đầu tiên, còn PLGĐ nằm trong Ban Hành động K1 bị đưa đi đợt hai, khi tôi bị đưa từ K2 sang K1 thì không còn ở đó nữa.
Cuối năm 1979, tôi bị đưa lên Tống Lê Chân. Tại trại mới, tôi gặp lại Thiếu tá Phan Thanh Tùng, một trong những ông Liên đoàn trưởng ở BCH/KT&TV/KQ ngày trước. Anh có biệt hiệu Tùng “con” vì người nhỏ thó, mặt mũi thư sinh, tính tình hiền lành.
Trước năm 1975, tôi và anh Tùng đã khá thân nhưng ở Suối Máu ít khi gặp nhau trò chuyện vì hai nhà khá xa nhau, nay gặp lại ở Tống Lê Chân mới có nhiều cơ hội.
Nguyên tù cải tạo ở Tống Lê Chân bị nhét như cá hộp trong những dãy nhà tối tăm lụp xụp, nên ban ngày ai cũng ra bên ngoài cho thoải mái, muốn “quan hệ” với ai mặc sức, nhờ đó tôi mới biết tới cái “câu lạc bộ” ngoài trời của anh Tùng và mấy quan tá “xì thẩu”, nơi các đàn anh thường tụ tập cà phê trà lá, tập tành chơi ghi-ta... vào những lúc rảnh rỗi sau giờ lao động.
Thấy anh Tùng và mấy quan tá lần mò từng hợp âm trên cần đàn một cách khó khăn tôi bỏ công biên soạn tập “Cách bấm những hợp âm căn bản” và được đón nhận nồng nhiệt – bằng tinh thần cũng như vật chất!
Cũng nên biết tù cải tạo ở Tống Lê Chân không được thăm nuôi, không được nhận quà cho nên tôi bị “đói” – nhất là đói thuốc, đói đường, cho nên tôi không một chút tự ái khi nhận “học phí” là những nhúm thuốc rê, những cục đường tán từ anh Tùng và các quan tá “xì thẩu”.
Viết như thế không có nghĩa họ chỉ xem đây là một cuộc trao đổi “đôi bên cùng có lợi” mà trái lại rất quý mến tôi, đem lại cho tôi một niềm vui thực sự trong những tháng ngày tù tội ở Tống Lê Chân. Về phần anh Tùng, anh cũng rất hãnh diện khi có một đàn em Không Quân làm... rạng rỡ quân chủng!
* * *
Cuối tháng 1/1981, mấy tuần trước tết Tân Dậu, tôi được thả. Khoảng một tháng sau, Trần Ngọc Tự cũng được thả về từ miền Bắc; rồi PLGĐ cũng được thả.
Vì hoàn cảnh gia đình cũng như lo ngại “tai mắt” của công an, ba thằng chúng tôi hạn chế gặp gỡ nhau, và không bao giờ ngồi chung quán cà phê nơi những anh em cựu tù cải tạo thường tụ tập. Riêng PLGĐ, tôi chỉ gặp một lần duy nhất khi hai thằng đi xe đạp ngược chiều đụng đầu nhau trong một con hẻm nhỏ ở Phú Nhuận.
Đó là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng tôi gặp lại PLGĐ vì tới tháng 10/1981 tôi vượt biên. Định cư tại Úc, tôi được tin PLGĐ sang Hoa Kỳ theo diện HO và qua đời vì bạo bệnh năm 2001 khi mới 62 tuổi.
(Còn tiếp)
CHÚ THÍCH:
(1) Trung úy Nguyễn Trí Kiên xuất thân hoa tiêu khu trục A-1 Skyraider thuộc Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng. Vào đầu năm 1966, bốn phi đoàn khu trục hiện hữu - 514, 516, 518, 520 – mỗi phi đoàn được tuyển chọn bốn người sang Hoa Kỳ xuyên huấn phản lực cơ siêu thanh F-5. Phi Đoàn 514 gồm:
- Thiếu úy Lê Như Hoàn
- Thiếu úy Thăng Quốc Phan
- Thiếu úy Nguyễn Trí Kiên
- Thiếu úy Trịnh Hữu Trí
Về nước tháng 4 năm 1967, tất cả phục vụ tại Phi Đoàn 522 Thần Ưng, phi đoàn F-5 đầu tiên, và duy nhất vào thời điểm đó.
Trong một phi vụ oanh kích cộng quân vào năm 1968 (?), chiếc F-5 của Trung úy Kiên bị trục trặc kỹ thuật, bom đeo dưới cánh không rơi ra được, phải bay về Biên Hòa. Được lệnh nhảy dù nhưng anh đã quyết định cố tìm cách đưa phi cơ ra khỏi khu vực dân cư và bị crashed, trở thành hoa tiêu F-5 đầu tiên hy sinh.
Sự quên mình của Trung úy Kiên đã khiến dân chúng ở vùng Hố Nai cảm kích, tri ân; tang lễ của anh được ghi nhận là một trong những đám tang quân đội được dân chúng tham dự đông nhất từ trước tới nay.