BUỒN VUI ĐỜI LÍNH..... VĂN PHÒNG (phần 3)

Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện


“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”

(tiếp theo)

Thứ Bảy 26/4/1975, tôi ở lại Biên Hòa vì ngày hôm sau tôi sẽ trực BCH/KTTV/KQ.

Dù phi trường bị pháo kích nhiều, tình hình ra vẻ vẫn chưa đáng ngại cho lắm. Trực thăng của Không Đoàn 43 Chiến Thuật (gồm các phi đoàn trực thăng) vẫn tiếp tục lên xuống thi hành các phi vụ.

Buổi chiều hôm ấy, Trung úy Trịnh Viết Khẩn, một tay bạn thân của tôi từ ngày còn ở nội trú nay đang bay trực thăng UH-1 bên KĐ43, tìm tới nhà tôi trong khu gia binh.

Khi biết tôi đã đưa vợ con về Sài Gòn, Khẩn bật mí cho tôi biết tất cả các hoa tiêu trực thăng đã được lệnh sẵn sàng cất cánh bất cứ lúc nào, di tản về Tân Sơn Nhất để tránh pháo kích; Khẩn rủ tôi sang phi đoàn hắn để đi theo khi có lệnh di tản.

Tôi từ chối vì sáng mai tôi sẽ trực BCH/KTTV/KQ. Phòng trực của BCH ở bên khu Đông, chỉ cách các bãi đậu trực thăng của Không Đoàn 43 vài trăm mét cho nên Khẩn vẫn dặn phòng hờ:

- Tùy mày. Khi nghe tiếng tụi tao đồng loạt quay máy mày phải biết tụi tao sắp dông, muốn theo về Sài Gòn thì chạy sang phi đoàn tao.

Vì các câu lạc bộ, hàng quán trong phi trường đã lần lượt đóng cửa bỏ chạy hết, tôi phải tự nấu cơm; hai thằng vừa ăn vừa nhắc nhớ những kỷ niệm của một thời quậy phá trong nội trú rồi bùi ngùi điểm lại bạn bè người còn kẻ mất, trong đó có một thằng bay UH-1 ở Pleiku, Phi Đoàn 235 Sơn Dương, đã bặt tin từ lâu...

Riêng tôi và Trịnh Viết Khẩn, hôm đó là lần cuối cùng hai thằng gặp nhau trên cõi đời này. (Di tản sang Mỹ, hắn chết một cách lãng xẹt khi hư xe ngoài xa lộ, xuống xe và bị một chiếc xe khác đụng chết).

Sáng Chủ Nhật 27/4, sau khi tôi lên phiên trực, Việt Cộng bắt đầu gia tăng cường độ pháo kích vào phi trường, phần lớn là hỏa tiễn 122 ly, thỉnh thoảng lại xen vào mấy trái đại bác 130 ly nổ rung cả mặt đất.

Sau này, đọc các tài liệu tôi được biết từ sáng đến khuya Chủ Nhật, Việt Cộng đã pháo kích trên một ngàn trái đủ loại vào CCKQ Biên Hòa và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III sát bên.

Càng về khuya, Việt Cộng càng pháo kích dữ dội. Một số quân nhân thuộc BCH/KTTV/KQ bị thương được đưa lên Bệnh Xá của SĐ3KQ ở bên khu Tây, trong đó có một người bị thương nặng nên tôi phải chạy xe sang xem tình trạng ra sao.

Cũng xin có đôi dòng về nhiệm vụ của “sĩ quan trực” tại BCH/KTTV/KQ. Một cách đầy đủ phải gọi là “sĩ quan trực ứng chiến”, bởi vì ngoài ra còn có “sĩ quan trực Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận”, “sĩ quan trực Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu”, và một vị “sĩ quan tổng trực”.

Vì BCH/KTTV/KQ là một đơn vị không phi hành cho nên tuy ký sổ nhận bàn giao phiên trực vào buổi sáng nhưng công việc của các sĩ quan trực chỉ bắt đầu sau khi tan sở.

Sĩ quan trực các trung tâm thì chịu trách nhiệm công việc tại trung tâm, còn sĩ quan tổng trực - một vị sĩ quan cấp tá - thì trên nguyên tắc chịu trách nhiệm tổng quát nhưng trên thực tế hầu như chẳng phải làm gì cả; ông nào có tinh thần trách nhiệm cao cũng chỉ điện thoại hoặc lái xe đi một vòng điểm danh các sĩ quan trực trong ngày hôm đó.

Trong khi “sĩ quan trực ứng chiến” thì không chỉ có trách nhiệm điều động toán ứng chiến phía ngoài các hangar mà còn phải giải quyết tất cả mọi việc xảy ra sau giờ làm việc. Riêng sĩ quan trực ngày Chủ Nhật như tôi hôm đó thì lãnh đủ từ sáng sớm...

Khi tôi lái xe tới sân bệnh xá SĐ3KQ thì thấy ba, bốn quân nhân bị thương nằm trên băng-ca đặt ngoài hàng hiên, trong đó có quân nhân bị thương nặng thuộc BCH/KTTV/KQ; có hai người bạn cùng xưởng đang nửa ngồi nửa quỳ bên cạnh.

Tôi tiến tới hỏi sao không đem vào phòng cấp cứu, một trong hai người lính trả lời “không còn chỗ”.

Tôi không có thì giờ tìm hiểu lúc đó có còn vị bác sĩ nào tại Bệnh Xá hay không, chỉ thấy một hạ sĩ quan chạy tới chạy lui chăm sóc vết thương cho các quân nhân bị thương nằm ngoài hành lang. Nhưng với người lính thuộc BCH/KTTV/KQ bị thương nặng thì vô phương: anh bị một miểng pháo kích vào ngay giữa trán, tạo thành một cái lỗ sâu hoắm, đường kính cũng cỡ cái hột vịt, máu trào ra như suối, không loại băng nào có thể cầm lại được...

Người hạ sĩ quan y tá của bệnh xá nhìn tôi lắc đầu tuyệt vọng... Điều an ủi là chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau khi tôi trở về phòng trực, dưới xưởng điện thoại lên báo người lính bị thương đã tắt thở; đã không cứu được thì chết càng mau càng tốt, tránh đau đớn kéo dài.

Khoảng hơn 10 giờ đêm, Việt Cộng gia tăng pháo kích tới mức tối đa, nghe tiếng trực thăng bên KĐ43 bắt đầu cất cánh, tôi biết giờ này Khẩn đang nôn nóng đợi tôi theo lời dặn dò hôm trước. Lòng tôi chỉ nao nao chứ không một chút lưỡng lự đi hay ở.

Nao nao khi biết Biên Hòa, vốn được mệnh danh là căn cứ không quân lớn nhất Đông Dương, quan trọng nhất Đông Nam Á, giờ này hoàn toàn vắng bóng phi cơ, chỉ còn lại những người lính kỹ thuật, lính phòng thủ...

Mười một giờ đêm, tiếng trực thăng xa dần...

Các bãi đậu trực thăng trong CCKQ Biên Hòa nhìn từ Quốc lộ 1 (ngã ba Rừng Mít). Hình chụp năm 1967
khi khu vực này còn là căn cứ của 145th Combat Aviation Battalion, Lục Quân Hoa Kỳ


Sáng Thứ Hai 28/4, Việt Cộng bớt pháo kích rồi ngưng hẳn. Rất có thể chúng biết các phi cơ đã bay đi hết, tức là phi trường không còn lực lượng tác chiến, bắn chi cho phí đạn!

Sĩ quan trực ngày Thứ Hai không đến đơn vị, tôi phải tiếp tục nhiệm vụ. Những quân nhân đã về Sài Gòn vào cuối tuần trước, giờ đây đều có lý do chính đáng để không trở lại Biên Hòa: du kích Việt Cộng đã xuất hiện tại một số vị trí dọc theo xa lộ Đại Hàn, và nghe đồn đã đóng chốt trên Cầu Hang, đi ngang có thể bị phục kích bắn sẻ, cho nên tốt hơn hết là chạy vào Tân Sơn Nhất điện thoại lên Biên Hòa “trình diện”.

Khoảng 10, 11 giờ sáng, Chuẩn tướng Từ Văn Bê tới T.O.C. (Trung Tâm Hành Quân) của SĐ3KQ họp với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính và các sĩ quan cao cấp.

Quá trưa, ông trở về BCH cho triệu tập các đơn vị trưởng, trưởng phòng, trưởng khối biệt lập thông báo lệnh di tản của BTL/KQ: nội chiều nay trực thăng Chinook sẽ đưa mọi người về Tân Sơn Nhất; trước khi đi phải đốt phá bình địa, không để lại một thứ gì địch có thể sử dụng. (Chú thích 1)

(Sau này tôi được biết sở dĩ từ Biên Hoà về Sài Gòn chỉ có 25 cây số mà không di tản bằng đường bộ là vì lúc đó Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III không cho phép bất cứ đơn vị nào ở Biên Hòa di tản).

Trong số sĩ quan không trở lại đơn vị vào sáng Thứ Hai có ông Trung tá Trưởng Khối và hầu hết sĩ quan thuộc Khối CTCT cho nên tôi bị ông Từ Văn Bê gọi sang khu Đông chịu trách nhiệm di tản quân nhân thuộc Khối CTCT và các phòng sở tham mưu.

Địa điểm Chinook đáp là sân đậu phi cơ trước hangar B ở khu Tây, nơi tổ chức các buổi chào cờ của BCH/KTTV/KQ và các buổi lễ lớn ở CCKQ Biên Hòa, trong đó có lễ bàn giao phản lực cơ F-5 cho KQVN vào đầu tháng 6/1967.

Sĩ quan cấp dưới, hạ sĩ quan, binh sĩ và gia đình ra đó trước, sĩ quan cao cấp nhất ở lại phần sở, sau khi đốt mới được đi. Để Chinook có thể chở người tới mức tối đa, các quân nhân được lệnh chỉ mang theo nón sắt, khẩu súng với hai cấp số đạn và một túi xách nhỏ.

Họ được lệnh ngồi thành từng toán 60 người, mỗi toán do một sĩ quan hay hạ sĩ quan trách nhiệm (trên thực tế sau một hai đợt, chuyến nào cũng chở trên dưới 100 người).

Ưu tiên di tản như sau: Phòng An Ninh Quân Đội, Phòng Tài Chánh, Phòng Tổng Quản Trị (vì hồ sơ cần mang đi trước); kế tiếp là lính kỹ thuật và sau cùng mới tới Liên Đoàn Phòng Thủ.

Khoảng 2 rưỡi chiều, sau khi đôn đốc anh em quân nhân thuộc Khối CTCT và các phần sở tham mưu ra địa điểm chờ di tản, tôi trao trách nhiệm cho Thiếu Úy T - sĩ quan CTCT duy nhất còn ở lại với tôi - rồi trở về BCH.

Vì buổi sáng hôm đó tôi phải ngồi ở phòng trực thêm mấy tiếng đồng hồ cho nên không được biết có bao nhiêu quân nhân thuộc Ban Văn Thư BCH, Khối CTCT và Phòng Kế Hoạch tới đơn vị, chỉ biết vào lúc 3 giờ chiều chỉ lại còn ba người: Chuẩn tướng Từ Văn Bê, tôi và người lính của Phân Đoàn Cảnh Vệ có bổn phận đứng gác trước cửa BCH.

Ông Bê nói tôi xuống Đoàn Quân Xa lấy một can xăng 20 lít đem về BCH.

Tôi để can xăng ngoài cửa phòng làm việc của ông rồi bước vào phòng. Hai thầy trò không ai nói với ai câu nào. Tôi ngồi ở ghế sa-lông còn ông cứ đi tới đi lui từ cái bàn làm việc tới cạnh cửa sổ, mắt nhìn ra ngoài.

Lúc đó tôi cứ thắc mắc: tất cả phi cơ đã rời căn cứ từ đời nào, những chiếc trực thăng Chinook đang di tản anh em binh sĩ và gia đình thì đáp trước hangar B ở tận khu Tây, đứng đây không thể nhìn thấy, vậy ông Bê quan sát cái gì?!

Mấy chục năm sau, đọc bài “Biên Hòa không lời từ biệt” của cựu Trung tá Nguyễn Phú Chính, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 237 (Chinook), lúc đó đang ở phía trước hangar B để điều động cuộc di tản, tôi mới biết Chuẩn tướng Từ Văn Bê đợi chiếc trực thăng UH-1 của Mỹ đáp xuống gặp Chuẩn tướng Tính, là thời điểm bắt đầu cho đốt phá cơ sở.

Gần 4 giờ chiều, chuông điện thoại reo, ông Bê vội chụp lấy ống nghe:

- Bê tôi nghe!

Tôi không nghe rõ người ở đầu dây nói những gì, chỉ biết ông Bê đáp:

- Cám ơn anh Tính!

Đặt ống nghe xuống, ông thẫn thờ như người mất hồn, không nói với tôi một lời nào, đảo mắt nhìn cái bàn làm việc rộng lớn mà không đụng tới một thứ gì.

Ông chỉ mở ngăn kéo lấy khẩu Smith & Wesson 9 ly, ngần ngừ mấy giây rồi bỏ trở lại. Suýt nữa thì tôi buột miệng xin ông khẩu súng hiếm quý này nhưng đã kịp thời im miệng để tôn trọng những giây phút cuối cùng của ông sếp lớn trong cương vị chỉ huy trưởng ngành kỹ thuật & tiếp vận của Không Quân trong suốt 17 năm trường!

Rồi ông nói tôi lấy xăng rưới bắt đầu từ phòng làm việc của ông ra hàng lang, xuống cầu thang ra tận cửa. Tôi và ông bước ra, người lính của Phân Đoàn Cảnh Vệ có nhiệm vụ gác cửa Bộ Chỉ Huy đưa tay chào lần cuối cùng!

Tôi nói với anh:

- Thôi đi về đi. Tôi đốt Bộ chỉ huy bây giờ đây. Nếu anh muốn theo trực thăng về Tân Sơn Nhất thì sang hangar B.

Người lính đi được một quãng bỗng dừng chân quay đầu lại, như thể muốn chứng kiến những gì chỉ xảy ra một lần trong đời!

Chuẩn tướng Từ Văn Bê nhìn cái building to đẹp nhất căn cứ KQ Biên Hòa rồi chửi thề nho nhỏ - lần đầu tiên trong 3 năm ở Biên Hòa tôi nghe thấy ông chửi thề:

- ĐM mấy thằng Huê Kỳ, xây cho cố vào rồi bây giờ ra lịnh đốt!

Rồi tôi được lệnh châm lửa!

Ông Bê lái xe jeep chở tôi chạy chầm chậm ngang qua Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu ở gần đó, Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng đợi sẵn, liền ra lệnh châm lửa đốt Phòng Điện Toán.

Tiếp theo là Liên Đoàn Động Lực, Liên Đoàn Vũ Khí & Điện Tử và tất cả các cơ sở khu Đông lần lượt chỉm trong khói lửa, chỉ trừ dàn thử động cơ phản lực (Test Cell) ở tận cuối phi đạo phía Đông.

Cho đốt xong khu Đông, tôi và ông Bê theo con đường dọc theo phi đạo sang khu Tây. Tới chỗ tập họp của binh sĩ phía trước hangar B, tôi nói ông cho tôi xuống xe.


Phi trường Biên Hòa nhìn từ hướng Đông, hình chụp năm 1967. Xa xa là địa điểm di tản trước hangar B (ngôi sao đỏ). Chỗ có mũi tên vàng là tổng kho của TTTLCV, bị toán EOD phá hủy tối 28/4/1975



Thú thật, tôi xuống xe mà đầu óc không suy nghĩ gì cả. Tôi không một thoáng phân vân giữa việc xin đi theo ông Bê (ông và Chuẩn tướng Tính có trực thăng chờ sẵn ở T.O.C.) và việc ở lại với anh em binh sĩ. Tôi coi việc ở lại là một cái gì đương nhiên, thế thôi!

Trước đó, khi trao cho Thiếu úy T chịu trách nhiệm anh em quân nhân thuộc Khối CTCT và các phần sở tham mưu chờ di tản, tôi nhờ anh giữ giùm khẩu M16 của tôi và cái túi xách helmet (flight helmet bag) cốt để anh yên tâm, tin rằng tôi sẽ trở lại với anh em.

Không biết trong bụng T có tin hay không, chỉ biết giờ này thấy tôi trở lại, T vừa tỏ ra vui mừng vừa nhìn tôi với ánh mắt kính phục.

Nói cho cùng, dù gì chúng tôi chúng tôi cũng có quyền tự hào khi cả Khối CTCT với gần một chục sĩ quan cấp tá, cấp úy chỉ có hai thầy trò chúng tôi ở lại tới giờ phút cuối.

Về phía các sĩ quan của BCH/KTTV/KQ nói chung, vào buổi sáng (Thứ Hai 28/4/1975) tôi được biết ngoài Chuẩn tướng Từ Văn Bê, còn có Đại tá Trương Trọng Công, Chỉ huy phó, Đại tá Nguyễn Văn Trung, Không đoàn trưởng Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo, Trung tá Nguyễn Mạnh Thuần, Không đoàn phó, Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu, và nhiều vị Thiếu tá Liên đoàn trưởng, Trưởng phòng... Riêng Đại tá Huỳnh Công Chức, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận, tôi không biết rõ.

Nhưng tới khi tôi trở lại khu vực chờ Chinook trước hangar B thì chỉ còn thấy Trung tá Nguyễn Kim Cương, Thiếu tá La Văn Được, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Bảo Trì Phi Cơ, và Thiếu tá Nhữ Văn Phúc, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Vũ Khí & Điện Tử (có thời gian làm quyền Trưởng Khối CTCT).

Phía SĐ3KQ, vào lúc đó (khoảng 5 giờ chiều), tôi chỉ thấy Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ...

* * *

Sau khi Chinook đáp được vài đợt, thì đùng một cái ai đó cho nổ kho bom nằm ở hướng bắc, gần sát phi đạo, không xa hangar B bao nhiêu.

Thế là những tiếng nổ long trời lở đất nối tiếp nhau, miểng bom chài (như cây đinh có đuôi 4 cánh) văng rào rào xuống bãi đậu phi cơ, rớt lộp cộp trên nón sắt của mọi người. Các quân nhân trách nhiệm các hangar ở khu Tây thấy thế cũng vội vã đốt cơ sở, khói lửa càng thêm mịt mù. Trước tình thế ấy, Chinook không thể tiếp tục đáp, và cuối cùng, khi màn đêm chuẩn bị buông xuống, chỉ còn lại đoàn người ngồi chờ tuyệt vọng trước hangar B!

Tới đây, vì là người đầu tiên châm lửa đốt CCKQ Biên Hòa, tôi nhận thấy cần có đôi lời đính chính trước nguồn tin nói rằng ngày ấy Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính đã trách cứ Chuẩn tướng Từ Văn Bê về việc ra lệnh đốt cơ sở quá sớm khiến binh sĩ bị rối loạn tinh thần, đưa tới tình trạng hỗn loạn và vì thế cuộc di tản bằng trực thăng Chinook đã bị bỏ dở khiến cho cả ngàn quân nhân thuộc SĐ3KQ và BCH/KT&TV/KQ bị kẹt lại!

Tôi hoàn toàn phản bác nguồn tin đó.

Thứ nhất, "cơ sở" của BCH/KTTV/KQ là các trung tâm điện toán, trung tâm quy chuẩn, các hangar tổng kiểm, bảo trì phi cơ, với biết bao máy móc điện tử nằm rải rác từ khu Đông sang khu Tây, không đốt sớm thì không thể đốt hết. Chuẩn tướng Từ Văn Bê ra lệnh đốt sớm có lẽ vì muốn đích thân chứng khiến tất cả đã được đốt trước khi mọi người rời bỏ căn cứ.

Thứ hai, lúc ban đầu bên BCH chỉ đốt cơ sở ở khu Đông, tức là cách xa địa điểm di tản (khu Tây) cả cây số, binh sĩ cùng lắm cũng chỉ nhìn thấy khói đen bốc lên thôi. Nếu họ mất tinh thần thì mất vì thiếu vắng cấp chỉ huy trực tiếp nhiều hơn là vì thấy căn cứ bị đốt. Riêng binh sĩ của BCH/KT&TV/KQ, tôi nhận thấy họ bình tĩnh và nghe lệnh các sĩ quan cho tới giờ phút cuối.

Cho nên, nếu có trách thì phải trách người ra lệnh cho nổ kho bom quá sớm (hoặc ra chỉ thị không rõ ràng), cũng như trách Bộ Tư Lệnh KQ đã không tăng cường thêm trực thăng để phụ với Chinook của 237 di tản binh sĩ. Bởi vì theo nhận xét của tôi, cho dù kho bom không nổ sớm, với nhịp độ đáp của Chinook, tới tối cũng không thể nào di tản hết cả ngàn quân nhân còn kẹt lại.

Cuối cùng, cũng không thể không quy trách một phần cho tên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung, kẻ đã hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất vào buổi chiều hôm đó. Bởi vì nếu Tân Sơn Nhất không bị ăn bom của y và đồng bọn, rất có thể Chinook vẫn tiếp tục bay xuống Biên Hòa để di tản binh sĩ và gia đình.

Phần tôi, sau này cứ tự an ủi: bị kẹt có khi lại là may mắn, về Tân Sơn Nhất biết đâu lại chết vì bom của tên phi công phản bội ấy, hoặc vì đạn pháo kích của Việt Cộng!

Khoảng 6 rưỡi tối căn cứ Biên Hòa hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh KQ, phi trường chìm trong bóng tối vì nhà máy điện đã bị phá hủy. Phía SĐ3KQ, Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, quyết định dẫn lính về Sàigòn bằng đường bộ. Phía BCH/KTTV/KQ, sĩ quan cao cấp nhất còn lại Thiếu Tá Nhữ Văn Phúc, Liên Đoàn Trưởng Vũ Khí & Điện Tử; ông nói với tôi:

- Vợ con moa còn bị kẹt bên Cù Lao, không biết giờ này ra sao. Moa phải về. Thôi, toa ở lại nhé!

(Sau này tôi được biết sĩ quan cao cấp nhất của BCH/KTTV/KQ ở lại tới giờ phút cuối không phải Thiếu Tá Nhữ Văn Phúc mà là Trung Tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu, đã hướng dẫn một số anh em quân nhân thuộc BCH/KTTV/KQ đi theo đoàn quân của Trung tá Lý Thành Ba)

Lúc đó, tình hình đã hỗn loạn. Lớp thì Cảnh Sát Dã Chiến vào giữ phi trường theo lệnh của Quân Đoàn, lớp thì đám người "thừa nước đục thả câu" vào hôi của trong các khu gia binh, lớp thì binh sĩ tự động tan hàng...

Tôi quyết định đưa mấy anh em thuộc Khối CTCT và những quân nhân khác muốn theo tôi về Sài Gòn bằng đường bộ. Nhưng vì quân số ít, lại không có khả năng "tác chiến" như lính phòng thủ, tôi chọn đi ra ngã ba Tam Hiệp rồi theo xa lộ cũ chứ không dám sử dụng xa lộ Đại Hàn vì sợ bị Việt Cộng tấn công hoặc phục kích bắn sẻ.

Dĩ nhiên, di tản bằng quân xa. Tôi không còn đầu óc để nhớ tới cái xe Suzuki M15 cà rịch cà tàng của mình để ở nhà trong khu gia binh mà đi thẳng tới bãi đậu quân xa trước hangar B, thấy còn hai ba chiếc pick-up (truck) Chevrolet và chiếc Scout của Đại tá Trương Trọng Công, liền nhảy lên, vừa đủ chỗ ngồi cho tôi, Thiếu úy T và ba binh sĩ dưới quyền.

[Kiểu xe 4x4 Scout 800 của hãng International Harvester, sản xuất từ năm 1960 tới 1980, được xem là kiểu xe SUV (sport utility vehicle) đầu tiên trên thế giới. Ngày ấy BCH/KTTV/KQ được Không Quân Mỹ chuyển giao hai chiếc, một chiếc sử dụng làm “xe gia đình” của Chuẩn tướng Từ Văn Bê (nhưng hầu như luôn luôn nằm ở Đoàn Quân Xa), một chiếc Đại tá Trương Trọng CôngChỉ huy phó, chạy]

Một chiếc Scout 800 đời 1965. Kiểu của Không Quân sơn màu xanh blue


Khi chúng tôi vừa ra khỏi cổng 2 (Dốc Sỏi), quẹo trái để đi về hướng Tam Hiệp thì nghe mấy tiểng nổ long trời lở đất, nhìn vào thấy lửa khói bốc lên rất cao thì cứ nghĩ đây là những trái bom đặc biệt (chẳng hạn CBU) trong kho bom vừa phát nổ. Sau này ra hải ngoại, được nghe các sĩ quan cao cấp bên Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận kể lại mới biết những tiếng nổ lớn đó phát xuất từ khu nhà kho chính của Trung Tâm, được Toán Tháo Gỡ Phá Hủy Đạn Dược (EOD: Explosive Ordnance Disposal) của SĐ3KQ đặt chất nổ, đợi mọi người ra khỏi căn cứ mới cho nổ. (mũi tên vàng trong hình trên)

Tuy những tiểng nổ này không khủng khiếp cho bằng tiếng nổ khi kho bom (cũ) bị nội tuyến Việt Cộng đặt chất nổ làm rung chuyển cả thành phố Biên Hòa vào tháng 9/1972, cũng khiến dân chúng hốt hoảng, chạy ra đường hỏi thăm tin tức; chúng tôi cũng không biết trả lời ra sao...

Ra tới ngã ba Tam Hiệp, chúng tôi quẹo mặt đi về Sài Gòn; theo sau xe của tôi là mấy chiếc pick-up một băng hoặc hai băng ghế (6 chỗ ngồi) chở khoảng 20 quân nhân.

Nhưng chạy tới cầu Đồng Nai thì bị lực lượng Nhảy Dù đang trấn giữ cầu chặn lại, họ cho biết theo lệnh Trung tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III, không một quân nhân nào được phép qua cầu (về hướng Sài Gòn).

Tôi đành đưa mọi người vào sân Công Ty Đường Việt Nam trong khu kỹ nghệ Biên Hòa ở gần đó để ngủ đỡ, sáng mai tính. Nhưng nào có ngủ được, 130 ly của địch từ Trảng Bom bắn tới suốt đêm.

Sáng ra mới biết mình may mắn, trong khi một số quân nhân của các đơn vị khác chạy về ngủ gần đó và đồng bào chạy giặc ngủ dọc xa lộ bị chết hoặc bị thương.

Tôi còn đang phân vân chưa biết đi đâu thì một số anh em Không Quân từ Biên Hòa chạy lên cho biết "Không Quân đã trở lại phi trường!"

Lính Dù đã cương quyết không cho qua cầu thì dù trong lòng bán tín bán nghi tôi cũng đành trở lại Biên Hòa xem sao. Về đến nơi, quả thật có thấy một số quân xa Không Quân chạy tới lui trong phi trường nhưng toàn là lính..."phòng thủ"!

Thì ra đêm qua, Trung tá Lý Thành Ba đã không đưa đoàn người về Sài Gòn (sợ xa lộ Đại Hàn không an toàn) mà cho ngủ lại ở sân vận động tỉnh. Tôi hỏi ông bây giờ mình tính sao, ông nói chờ lệnh bên Quân Đoàn cho di tản, lúc đó mình đi theo.

Vì không có Motorola cầm tay hoặc gắn trên xe để liên lạc với bên Phòng Thủ, tôi nói anh em chỉ được quanh quẩn từ T.O.C. ra tới Cổng 1, chờ đi theo Trung tá Lý Thành Ba, và trong lúc chờ đợi, chạy xuống Đoàn Quân Xa của BCH/KTTV/KQ gần đó đổ xăng cho đầy xe và các bình can sơ-cua (cũng may mà đêm hôm qua người ta không kịp đốt cây xăng!)

Riêng tôi rất muốn làm một vòng từ khu Đông sang khu Tây để xem những chỗ đã đốt chiều hôm trước, nhưng sợ bên Quân Đoàn ra lệnh di tản bất ngờ nên phải bỏ ý định, chỉ lái xe vòng vòng khu vực Bộ Chỉ Huy ở khu Đông, thì thấy Phòng Điện Toán của Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu bị hoàn toàn thiêu rụi, tòa nhà hai tầng của Bộ Chỉ Huy (do tôi châm lửa) cũng bị thiêu hủy 100% trừ cái mái hiên trước cửa ra vào vẫn còn đứng vững nhờ bốn cây cột xây bằng gạch. Nhưng rạp hát, cũng do Mỹ xây, thì còn nguyên vẹn...

* * *

Khoảng gần trưa, bên Quân Đoàn cho lệnh di tản. Trên đường về Sài Gòn theo xa lộ cũ, đoàn quân xa màu xanh của Không Quân tản mác dần trong rừng xe của các quân binh chủng.

Qua nhà máy xi-măng Hà Tiên, đoàn xe bắt đầu chạy chậm lại vì bị kẹt xe ở Ngã Tư Xa Lộ (Hàng Xanh). Lách tới lách lui, cuối cùng tôi thấy mình chạy ngay sau chiếc GMC chở một quan tài phủ cờ vàng, có người góa phụ trẻ bồng con ngồi bên cạnh.

Ngay lúc ấy, vì chưa biết giờ này (xế chiều 29/4/1975) nhiều tướng tá đã hoặc đang tìm đường thoát thân, tôi chỉ cảm thấy thương tội người góa phụ, nhưng sau này nhớ lại, tôi còn cảm thấy thương tội (và ngưỡng phục) người quân nhân lái xe cùng với người trưởng xa, tới giờ thứ 25 vẫn lo chu toàn bổn phận của người sống đối với người chết!

Năm mươi năm sau, mỗi lần ngày 30 tháng Tư trở lại trong đầu, tôi lại bị chiếc GMC chở một quan tài ám ảnh, và tự hỏi: không biết ngày ấy chiếc GMC và hai quân nhân nói trên có kịp chở quan tài này về quê của người tử sĩ hay không?

* * *

Tới Ngã Tư Xa Lộ, vì cầu Phan Thanh Giản đã bị Cảnh Sát Dã Chiến chặn không cho qua, xe cộ chỉ còn hai lối đi: quẹo trái để vào Sài Gòn bằng đường Hùng Vương (Thị Nghè, nối liền đường Hồng Thập Tự) quẹo phải về hướng Bà Chiểu, Gia Định.

Riêng chiếc xe GMC chở quan tài thì vẫn chạy thẳng về phía cầu Phan Thanh Giản. Tôi cả tuần qua không về Sài Gòn, mà có về cũng về qua ngả xa lộ Đại Hàn nên đâu biết việc cầu Phan Thanh Giản bị đóng, thấy hướng này không bị kẹt, cứ chạy theo chiếc GMC.

Chạy tới cầu tôi mới biết chỉ có người đi bộ mới được đi qua cầu để vào Sài Gòn. Tuy nhiên, một vị sĩ quan Cảnh Sát Dã Chiến ra lệnh gỡ mấy vòng concertina (kẽm gai) để chiếc GMC chở quan tài chạy qua cầu. Thấy vậy tôi tiến tới ca bài ca con cá, nói với ông ta rằng chúng tôi là Không Quân ở Biên Hòa di tản theo lệnh Quân Đoàn III, nhà ở ngay khu Trương Minh Giảng nên xin phép được đi qua cầu.

Tôi chỉ năn nỉ cầu may, không ngờ vị sĩ quan lại bị sốc trước tin “Biên Hòa di tản”; ông hỏi tôi một cách chi tiết rồi tới thông báo cho vị sĩ quan cao cấp hơn, sau đó ra lệnh gỡ concertina cho xe của tôi chạy vào.

Vì là sĩ quan cấp nhỏ, tôi không biết một chút gì về tình hình ở Tân Sơn Nhất, kể cả việc tên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường vào chiều hôm trước (28/4), cho nên sáng nay khi Quân Đoàn III cho lệnh di tản, chúng tôi vẫn giữ ý định đi về Tân Sơn Nhất.

Nhưng sau khi qua cầu Phan Thanh Giản chạy vào thành phố, tôi bỗng cảm thấy lo âu cho vợ con, hiện đang tạm trú tại nhà bà ngoại ở Phú Nhuận, liền bàn với Thiếu úy T và ba binh sĩ dưới quyền hay là mình chia tay về nhà thăm gia đình rồi tính sau. Mọi người đều có cùng tâm trạng nên chúng tôi quyết định chia tay tại ngã tư Phan Thanh Giản – Pasteur.

Xuống xe rồi, Thiếu úy T còn hỏi tôi:

- Trung úy, rồi ngày mai mình đi đâu?

Lúc đó trong lòng tôi vẫn còn hy vọng những gì Không Quân bàn tán trong mấy ngày qua có thể trở thành sự thật: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ lãnh đạo tử thủ Vùng 4. Suy nghĩ một hai giây, tôi đáp:

- Đừng vào Tân Sơn Nhất nữa, về thẳng Cần Thơ!

Tôi về tới nhà, mừng rỡ gặp lại vợ con, rồi quá mệt vì mấy đêm liên tiếp không ngủ, tôi tắm rửa, ăn uống qua loa rồi đánh một giấc cho tới sáng, mặc cho những chiếc phản lực của Hải Quân Mỹ gầm thét trên bầu trời Sài Gòn bảo vệ những địa điểm “bốc người” của họ.

Sáng hôm sau, 30/4/1975, vợ tôi đánh thức tôi dậy để nghe ông Dương Văn Minh kêu gọi quân nhân các cấp buông súng đầu hàng.

Qua ngày hôm sau, Cần Thơ mất.

(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH

(1) Ngày ấy, tôi nghe vị sĩ quan tổng trực nói Chuẩn tướng Từ Văn Bê sang T.O.C. họp với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính và một tướng lãnh của BTL/KQ, sau này đọc bài“Biên Hòa Không Lời Từ Biệt” của cựu Trung tá Nguyễn Phú Chính, Phi đoàn trưởng PĐ-237 Chinnok, một trong những nhân chứng sống của cuộc di tản chiều 28/4/1975, tôi mới biết không có vị tướng nào của BTL/KQ cả, mà ông Tính và ông Bê ngồi đợi lệnh của Trung tướng TLKQ qua máy viễn thông.

Xin trích đăng một vài đoạn trong bài viết của Trung tá Chính:

...Khoảng 1 giờ trưa, nóng lòng gia đình ở Saigon, tôi lên BTL SĐ3KQ, (tạm thời đặt tại KĐ Yểm Cứ tránh pháo kích) xin về Saigon bằng phi cơ vài tiếng để thăm gia đình. Gặp Đ/tá Triệu nhờ ông ký Sự vụ lệnh. Ông bảo tôi vào gặp Tướng ký cho chắc. Vào phòng tôi gặp Ch/Tướng Huỳnh Bá Tính, và Ch/Tướng Từ Văn Bê đang nói chuyện nên tôi chưa kịp trình SVL. Bỗng có tiếng rè rè từ loa máy hotline, và tiếng Trung Tướng TLKQ: “cậu Tính”. Tướng Tính trả lời: “Tính nghe”. Giọng Tướng Minh ồ ồ, nhưng rõ ràng từng tiếng: “Lát nữa có thằng Mỹ đi chiếc trực thăng Air America lên gặp cậu. Tôi không biết nó sẽ nói gì với cậu, nhưng khi nó cất cánh đi, cậu thiêu hủy tất cả những gì cần thiết”.

Trả lời xong, Tướng Tính bảo tôi chờ. Ông hỏi quân số của Tướng Bê, ông kết luận: “ anh khoảng 6.000, tôi 6.000 là 12.000. Chính, cậu có thể đem được bao nhiêu Chinook lên đây”. Tôi trả lời: “Thưa Tướng, chắc hơn 10 chiếc”. Tướng căn dặn tôi những ưu tiên thứ tự: An ninh, gia đình quân nhân, quân nhân và cuối cùng là 600 quân nhân Liên Đoàn Phòng Thủ...

...Tôi lái qua West Ramp liên lạc với Chinook của PĐ. Tại đây gia đình KQ và lính bắt đầu tập hợp. Nhìn thấy chiếc trực thăng sơn trắng của Air America bay ngang đầu, tôi nhớ ngay lời TLKQ. Khoảng 5 phút sau, khu của Kỹ Thuật Tiếp Vận bốc khói đen trước nhứt. Nhớ các vụ di tản Miền Trung và khi thấy các kho chứa vật liệu cháy khói đen nghịt trời, ai cũng hoảng hốt. Gia đình và cả binh sĩ cũng lao nhao toán loạn, hàng ngũ rối loạn. Chuyến đầu, 12 chiếc, tôi vô cùng vất vả. Gia đình quân nhân, kể cả binh sĩ chen lấn, xô đẩy nhau lên phi cơ làm nghẽn lối, hỗn loạn. Khi cất cánh có người còn đeo tòn teng, tôi phải gọi pilot đáp xuống lại.

Những chuyến sau tôi đỡ vất vả. Tôi và Tướng Tính vẫn liên lạc thường xuyên. Tôi dự trù một chiếc chở 100 hay 110, phải mất 9-10 chuyến. Vì gần, bay thấp nên nhanh. Nhưng càng về chiều, các vụ thiêu hủy càng nhiều, những cột khói đen bay kín phi trường làm pilot rất vất vả mới đáp được vào đường di chuyển (taxi way). Đó cũng là một trở ngại lớn. Không ngờ chuyến thứ 5 một chiếc bị bắn ở cầu Hang thủng bình xăng. Tuy không bị thương, nhưng cũng phải đổi lộ trình.

Đến khoảng 5 giờ chiều, phi trường TSN bị đám phản loạn Nguyễn Thành Trung đánh bom, như tôi biết sau nầy, anh em không biết nên hốt hoảng bay toán loạn mất liên lạc. Không liên lạc được với Chinook, tôi gọi Tướng Tính và cũng không nghe trả lời. Tôi lại mất liên lạc với cả Tướng nữa sao. Trước đây thỉnh thoảng ông nhắc tôi: “Cậu cố gắng lo cho quân nhân và gia đình về Saigon”. Tôi lặng người, đứng nhìn Biên Hòa chập chùng trong khói lửa. Biên Hòa thân yêu, giờ đây trông thê thảm, tang thương, lòng tôi bồi hồi, đau xót. Biên Hòa thân thương của tôi giờ biến thành biển lửa. Xe cộ đủ loại bỏ chồng chất ngổn ngang. Quần áo, giầy dép, đồ đạc, giấy tờ rãi đầy trong bải đậu West Ramp. Số người còn lại cũng nháo nhác đợi trông. Hơn nữa, chiếc xe pick-up của tôi có lẽ chạy chậm tới lui từ trưa đến giờ nên chạy cà giựt, lại càng lo lắng. Tôi nhớ cách đây một giờ Tr/úy Đàm Quang Khánh, sĩ quan trực PĐ, trước khi lên Chinook về TSN còn nhắc tôi: “ Tr/tá về đi, em đã kinh nghiệm ở Đànẳng rồi”. Tôi tự hỏi: không lẽ tôi cũng bỏ chạy sao?
(Tr/úy Đàm Quang Khánh vừa tử nạn đúng ngày 30/4/2019 tại San Jose, California)

Trời càng tối, nhìn cảnh phi trường mịt mù khói lửa, ảm đạm, thê lương, sự lo lắng của tôi càng cao. Bất ngờ tướng Tính gọi, tôi mừng như sắp chết đuối vớ được phao, cứ ngỡ ông còn trong Bộ chỉ huy. Nhưng tôi hoàn toàn thất vọng, vì vị trí tướng hiện tại ở Vũng Tàu. Tôi gọi Chinook khàn cả cổ. Mãi tới hơn 7 giờ tối tôi mới liên lạc được một chiếc. Khi phi cơ lên tới BH, trời tối, khói đen che kín bải đáp nên phải đáp gần vòng đai cuối phi đạo phía Tây... (ngưng trích)

Độc giả có thể đọc trọn bài viết “Biên Hòa Không Lời Từ Biệt” của Trung tá Nguyễn Phú Chính qua link dưới đây:

https://hoiquanphidung.com/echo/khong-quan-vnch/101-vnaf/587-bien-hoa-khong-l-i-t-bi-t-nguy-n-phu-chinh

Cookies user preferences
We use cookies to ensure you to get the best experience on our website. If you decline the use of cookies, this website may not function as expected.
Accept all
Decline all
Analytics
Tools used to analyze the data to measure the effectiveness of a website and to understand how it works.
Google Analytics
Accept
Decline
Advertisement
If you accept, the ads on the page will be adapted to your preferences.
Google Ad
Accept
Decline
Save